Những mô hình trợ giúp pháp lý và bài học kinh nghiệm thực hiện trợ giúp pháp lý cho phụ nữ

20/12/2010
(TS. Trần Huy Liệu, Phó Cục trưởng Cục trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp)

1. Khái niệm trợ giúp pháp lý

Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nxb. Khoa học xã hội, 1997 thì “Legal aid” được dịch là “Trợ cấp pháp lý”. Ngoài ra, trong một số tài liệu khác dịch "Legal aid" là “hỗ trợ pháp luật”, “hỗ trợ pháp lý” hoặc “hỗ trợ tư pháp”... Như vậy, có rất nhiều cách dịch khác nhau về thuật ngữ này. Xuất phát từ bản chất và hình thức hoạt động “Legal aid” trên thế giới và thực tiễn hoạt động này ở Việt Nam trong thời gian qua, thuật ngữ “Legal aid” được dịch là“Trợ giúp pháp lý” đang được sử dụng chính thức trong các văn bản pháp luật và sách báo ở Việt Nam hiện nay.

Ở các nước trên thế giới, hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, người yếu thế bắt đầu hình thành và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của Nhà nước tư sản và được coi là chức năng xã hội của nhà nước, là một trong nhữmg tiêu chí bảo vệ quyền con người của nhà nước pháp quyền. Việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý ở Việt Nam năm 1997 là xuất phát từ chính những nguyên tắc Hiến định chủ quyền thuộc về nhân dân, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và bản chất của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trên thế giới rất phong phú và đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Vì vậy, chưa có quan niệm chung, thống nhất về trợ giúp pháp lý.

Do có nhiều mô hình trợ giúp pháp lý, với những quan niệm khác nhau về đối tượng, phạm vi, phương thức và chi phí trợ giúp pháp lý trên thế giới, nên ở mỗi nước đều có quan niệm riêng của mình và được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng nói chung các khái niệm của các nước đều thể hiện tính kinh tế, nhân đạo và tính pháp lý của hoạt động trợ giúp pháp lý. Tính kinh tế, nhân đạo thể hiện ở chỗ giúp đỡ cho đối tượng không có khả năng thanh toán cho các chi phí khi tiếp cận với dịch vụ pháp lý. Tính pháp lý của hoạt động trợ giúp pháp lý thể hiện ở chỗ giúp đỡ đối tượng giải quyết các vụ, việc có liên quan đến pháp luật (luật nội dung và luật hình thức...).

Dưới góc độ kinh tế mang tính nhân đạo một số nước (như Đức) quan niệm trợ giúp pháp lý là giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ tài chính cho những người không có khả năng thanh toán cho các chi phí về tư vấn pháp luật, đại diện hoặc bào chữa trước toà án.

Dưới góc độ pháp lý, theo pháp luật của Anh và xứ Wales thì Trợ giúp pháp lý là giúp đỡ pháp lý cho những người không có khả năng chi trả cho việc tư vấn, hỗ trợ và đại diện pháp lý.

Điều 2 Đạo luật về đại diện và tư vấn pháp luật năm 1995 của Singapore cũng giải thích rằng trợ giúp pháp lý là việc giúp đỡ những người không có khả năng chi trả cho các dịch vụ pháp lý.

Nhìn dưới góc độ mục đích của hoạt động trợ giúp pháp lý, người Úc cho rằng trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ cho một người có được hoàn cảnh và điều kiện tương tự như người khác trong việc tiếp cận với pháp luật, tức là tạo ra sự công bằng khi tiếp cận với pháp luật.

Trên cơ sở nghiên cứu những kinh nghiệm xây dựng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý của các nước trên thế giới đã có từ hàng trăm năm nay và thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta có thể đưa ra quan niệm chung về trợ giúp pháp lý một cách đầy đủ, thể hiện những đặc trưng cơ bản của nó. Theo quan niệm chung hiện nay thì trợ giúp pháp lý hiểu là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước và xã hội bằng các hình thức tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, hoà giải... cho người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và thực hiện công bằng xã hội.

Theo Điều 3 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 thì trợ giúp pháp lý được hiểu là việc cung cấp dịch vụ pháp lý (tư vấn, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, hoà giải...) miễn phí của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cho người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật nhằm giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.

Việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác ở Việt Nam xuất phát từ chủ trương xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, đảm bảo công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước ra đời đã tạo cơ chế cần thiết để người nghèo và người có công với cách mạng có được điều kiện và hoàn cảnh tương tự như người khác trong tiếp cận với các dịch vụ pháp lý, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào pháp luật và góp phần thực hiện công bằng xã hội.

( 2. Đặc điểm trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. 3. Mô hình trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. 4. Thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý cho phụ nữ. 5. Những khó khăn, vướng mắc và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động về trợ giúp pháp lý cho phụ nữ )

TT

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video