Cộng đồng các dân tộc Điện Biên

Dân tộc Thái
Dân tộc Thái cư trú ở vùng Tây Bắc đã hơn chục thế kỷ. Ở Điện Biên, dân tộc Thái là dân tộc có số dân đông nhất, chiếm 38,4% dân số toàn tỉnh. Hiện nay dân tộc Thái sinh sống ở hầu hết các huyện, thị trong tỉnh (tập trung ở huyện Điện Biên và Tuần Giáo). Người Thái còn có các tên gọi khác là Táy, Hàng Tổng, Pa Thay, Thổ Đà Bắc. Tiếng Thái thuộc hệ ngôn ngữ Tày – Thái.
Phụ nữ Thái có bộ y phục rất độc đáo với chiếc áo cóm bó sát người đính hàng cúc bướm bằng bạc; chiếc váy dài chấm gót, đầu đội khăn piêu tạo nét duyên dáng cho người phụ nữ. Người Thái có 2 nhóm là Thái đen và Thái trắng phân biệt qua trang phục và cách vấn tóc của phụ nữ có chồng. Phụ nữ Thái đen khi đã lấy chồng phải “tằng cẩu” (búi tóc lên đỉnh đầu) còn với phụ nữ Thái trắng thì không làm như vậy.
Người Thái được biết đến với những kinh nghiệm trong kỹ thuật tưới nước, đắp phai, đào mương... Lúa nước là nguồn lương thực chính. Sản phẩm nổi tiếng là vải thổ cẩm với hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ, đệm bông lau bền, đẹp. Người Thái ở nhà sàn, mỗi bản thường có 30 – 80 nóc nhà kề nhau, sinh sống dọc theo các con suối, nguồn nước.
2. Dân tộc Mông
Là một trong ba dân tộc có dân số lớn trong 21 dân tộc tại Điện Biên, chiếm 29,6% dân số toàn tỉnh. Đồng bào dân tộc Mông ở Điện Biên cư trú ở hầu hết các huyện, tập trung nhiều ở Tủa Chùa, Điện Biên Đông. Người Mông được chia thành 5 nhóm chính: Mông Đơ, Mông Lềnh, Mông Si, Mông Đu, Mông Sua. Nguồn sống chính của người Mông là làm nương rẫy, trồng ngô, trồng lúa. Người Mông thường cư trú ở các vùng núi cao, được biết đến là những người thợ thủ công tài hoa trong nghề rèn đúc.
Hôn nhân của người Mông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời, người cùng dòng họ không được lấy nhau. Phong tục tập quán cưới ở nhiều nơi còn phức tạp và tốn kém nhưng hiện nay đã giảm dần. Nền văn nghệ dân gian của người Mông khá phong phú với những nhạc cụ truyền thống như: khèn, đàn môi, sáo, nhị, trống, chiêng...
Văn hóa của người Mông rất đa dạng và phong phú, đặc biệt là lễ hội trong ngày tết: ném pao, múa khèn... Khi những nụ đào, mận chớm nở trên các triền núi cũng là lúc các chàng trai, cô gái Mông chuẩn bị cho ngày vui xuân của mình. Người Mông thường ăn tết sớm hơn ngày tết cổ truyền của dân tộc. Những ngày tết, bà con các làng bản lại tập trung tại những khoảng đất trống, rộng để vui chơi, múa hát. Nhiều nét văn hóa độc đáo của người Mông vẫn còn được lưu giữ, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của đồng bào.
3. Dân tộc Kinh
Là một dân tộc có số dân đông thứ 3 trong số 21 dân tộc, chiếm gần 20% dân số toàn tỉnh song người Kinh ở Điện Biên vẫn chỉ được coi là một dân tộc ít người, cư trú ở tất cả các huyện, thị. Tiếng Kinh thuộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường. Nghề làm vườn, chăn nuôi gia súc, gia cầm, đánh bắt cá đều rất phát triển.
Người Kinh sống ở nhà đất, nhà xây, có tục thờ cúng tổ tiên, con trai đầu có trách nhiệm thờ phụng ông bà cha mẹ đã khuất. Mỗi thôn, xóm đều có đình, chùa nhưng vì người Kinh ở Điện Biên không nhiều nên hệ thống đình, chùa, miếu mạo rất ít. Văn học – nghệ thuật của người Kinh phát triển sớm và đạt trình độ rất cao về nhiều mặt: văn học truyền miệng, văn học viết, âm nhạc, điêu khắc, hội họa...
4. Dân tộc Dao
Các huyện Mường Nhé, Tủa Chùa là nơi cư trú chủ yếu của đồng bào Dao, với các nhóm: Dao quần trắng, Dao quần chẹt, Dao tiền, Dao thanh y, Dao đỏ, Mán, Đông, Trại, Xá... Cũng như phần lớn các dân tộc thiểu số khác, người Dao sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nương và lúa nước. Các nghề thủ công như: dệt vải, rèn, mộc, làm giấy cũng phát triển phần nào phục vụ nhu cầu cuộc sống của họ.
Người Dao có 3 loại nhà khác nhau: nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất, nhà đất. Đàn ông Dao để tóc dài búi sau gáy hoặc để chòm tóc trên đỉnh đầu. Trang phục của phụ nữ Dao phong phú hơn và giữ được nét trang trí hoa văn truyền thống. Người Dao không có văn tự riêng mà sử dụng chữ Hán đã được Dao hóa gọi là chữ Nôm Dao.
5. Dân tộc Khơ Mú
Dân tộc Khơ Mú ở Điện Biên cư trú đông nhất ở Điện Biên, Tuần Giáo, Điện Biên Đông, Mường Chà. Người Khơ Mús sống chủ yếu bằng nghề nương rẫy, thường dùng dao, rìu, gậy chọc lỗ tra hạt. Người Khơ Mú còn có nghề thủ công từ rất lâu đời và tương đối phát triển.
6. Dân tộc Hà Nhì
Trước đây, dân tộc Hà Nhì còn có tên gọi là U ní, Xá u ní, sống tản mạn trên rẻo cao chủ yếu ở huyện Mường Nhé. Họ sống chủ yếu bằng nghề làm nương, rẫy, có nơi trồng lúa nước, chăn nuôi khá phát triển. Nhà của người Hà Nhì phần lớn làm bằng đất, mái lợp rạ, nhà làm thấp và nhỏ nên bên trong thường rất tối. Các bản được làm gần rừng cây để tránh những cơn xoáy lốc thường xảy ra.
Trang phục của người Hà Nhì khá độc đáo, thoạt nhìn giống bộ quần áo dài của dân tộc Kinh, 2 tây khấu những vòng vải màu đỏ, vàng xen kẽ, nối tiếp nhau (36 vòng). Vòng quanh cổ áo có đính các đồng tiền bạc. Khăn đội đầu rực rỡ sắc màu có những chuỗi hạt cườm rủ xuống, tay đeo nhiều vòng bạc.
7. Dân tộc Giáy
Dân tộc Giáy ở Điện Biên chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân số toàn tỉnh. Người Giáy còn có tên gọi khác là Nhắng, Dẳng, Xạ... Tiếng Giáy thuộc ngôn ngữ Tày – Thái.
Theo phong tục của người Giáy, ngựời cha có vị thế quan trọng nhất trong gia đình nên con cái phải lấy họ cha. Phụ nữ Giáy khi mang thai phải kiêng cữ và cúng cầu mong sinh nở yên lành. Tên, ngày tháng năm sinh của đứa trẻ khi đầy tháng được thầy cúng ghi vào miếng vải đỏ, sẽ dùng để so tuổi khi tính chuyện cưới xin sau này và chọn giờ cho đám ma của chính người đó. Người Giáy có hình thức hát giao duyên rất sôi nổi và hấp dẫn.
8. Dân tộc La Hủ
La Hủ là dân tộc chỉ có ở hai tỉnh Điện Biên và Lai Châu, tập trung chủ yếu ở Mường Tè (Lai Châu) và xen kẽ một ít ở Mường Nhé (Điện Biên). Ngôn ngữ La Hủ thuộc nhóm Tạng – Miến, khá gần gũi với ngôn ngữ Hà Nhì. Người La Hủ nhanh nhẹn, tháo vát; nam giới rất giỏi đan lát các sản phẩm từ mây, tre. Dân tộc La Hủ lập bản trên sườn núi, bàn thờ tổ tiên và bếp bao giờ cũng đặt tại gian có chỗ ngủ của chủ gia đình. Tục ở rể vẫn được duy trì.
9. Dân tộc Lào
Dân tộc Lào tại Điện Biên cư trú đông nhất ở huyện Điện Biên, Điện Biên Đông. Người Lào sống định cư tại các bản làng đông đúc, tín ngưỡng tôn giáo chịu ảnh hưởng của đạo Phật. Nghề chủ yếu là làm ruộng nước, các nghề phụ như dệt, rèn, gốm, làm đồ bạc cũng khá phát triển.
10. Dân tộc Lự
Dân tộc Lự cư trú tập trung ở tỉnh Lai Châu, ở Điện Biên hiện nay chỉ còn một số sinh sống xen lẫn với các dân tộc khác.
Người Lự có truyền thống làm ruộng từ lâu đời, nhà nào cũng có vườn cạnh nhà. Họ thích ăn cơm nếp hơn cơm tẻ, thích ăn ớt, uống nước chè và đàn ông thường hút thuốc lào. Trang phục của người Lự, từ chiếc quần của đàn ông đến váy, áo, khăn của người phụ nữ thường có hoa văn trang trí sặc sỡ trên nền vải nhuộm chàm. Người Lự ở nhà sàn, hai mái, mái phía sau ngắn, mái phía trước kéo dài.
![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() |
Phụ nữ La Hủ | Phụ nữ Dao | Phụ nữ Khơ Mú | Phụ nữ Mông | Phụ nữ Thái |