Tục cưới hỏi của người Thái ở huyện Quan Hoá, Quan Sơn (Thanh Hoá)

23/01/2006
Người Thái ở Thanh Hoá có 2 ngành: Thái đen (Táy đăm) và Thái trắng (Táy dọ).

Căn cứ vào cách ăn mặc, ngôn ngữ và nguồn gốc lịch sử, các nhà nghiên cứu chia dân tộc Thái ở Thanh Hoá làm 2 nhóm:


Nhóm thứ nhất là nhóm Thái Thường Xuân: Tập trung ở Mường Chiềng Vạn, Mường Luộc, mường Xăng Khó (thường gọi là Táy dọ), thuộc các huyện Thường Xuân, Như Xuân, Như Thanh và ở một số bản thuộc huyện Triệu Sơn, Tĩnh Gia. Qua các nguồn tư liệu, nhóm Thái này chuyển từ Tây Bắc sang Lào, và quay trở về miền núi rừng Thanh- Nghệ, do đó dân tộc Thái ở vùng này có nhiều điểm giống nhau.


Nhóm thứ hai tập trung ở vùng Tây Bắc ThanhHoá (thường gọi là Táy đăm), người Táy đăm sống ở các huyện Quan Hoá, Quan Sơn, Bá Thước, Mường Lát, có một bộ phận chuyển xuống các huyện Lang Chánh, Thường Xuân và sống xen kẽ với người Táy dọ, người Mường và người Việt.

Do quá trình định cư và mối quan hệ lịch sử lâu đời với các dân tộc khác, văn hoá Thái có nhiều nét đan xen địa phương. Mỗi nhóm Thái đều có những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hoá giống nhau và khác nhau Trong phạm vi giới hạn, cùng với những thông tin thu nhập được qua đợt công tác tại hai huyện Quan Hoá và Quan Sơn, bài viết đề cập đến tục cưới hỏi của nhóm người Thái (ngành Thái đen) ở hai huyện trên.


Trước kia, nam nữ thanh niên dân tộc Thái 15-16 tuổi đã lấy nhau. Ngày nay, tuổi kết hôn của người Thái thường từ 20-24. Dân tộc Thái không ép buộc con cái phải lấy chồng hay lấy vợ theo ý muốn của cha mẹ, họ để cho con cái tự do tìm hiểu. Nếu hai bên nam nữ hợp nhau, người con trai lúc đó mới nói với bố mẹ để tiến tới hôn nhân. Để đi đến hôn nhân, người Thái ở đây phải trải qua nhiều các thủ tục, nghi lễ do luật tục Thái quy định:


Khi người con trai nói với bố mẹ về quan hệ của hai người và mong muốn bố mẹ cho thành vợ, thành chồng, gia đình nhà trai sẽ nhờ ông (bà) mối đi thăm dò ý kiến nhà gái (gọi là tham khòm pắc). Người Thái từ xưa cho tới ngày nay, khi chọn ông (bà) mối họ thường chọn người trung thực, con cái ngoãn ngoãn, gia đình hoà thuận. Nếu nhà gái đồng ý, bố mẹ chàng trai sẽ đến nói chuyện, gọi là chạm ngõ (Pậc khung xám nọi). Trước kia, khi nhà trai đến nhà gái nói chuyện mang theo vài quả cau, vài lá trầu làm quà. Ngày nay, còn có thêm rượu, bánh, kẹo, gia đình khá giả mang thêm gà sống, gạo..vv…Hai bên cha mẹ định ngày ăn hỏi, ngày cưới. Trong buổi gặp gỡ này, nhà gái sẽ bàn với nhà trai lễ vật nhà trai cần mang đến nhà gái trong ngày ăn hỏi. Đến ngày ăn hỏi (tộc khung phá luông) nhà trai mang đến nhà gái lợn, gạo, cá sống, bánh chưng (làm nhỏ như cái chén), một bộ váy áo, một đôi vòng tay cho mẹ cô dâu gọi là trả nghĩa sinh thành, trầu cau, rượu, nồi sanh, nén rưỡi bạc trắng (tương đương với 18 đồng bạc). Nếu nhà trai nghèo, không có tiền dẫn cưới, chàng trai phải ở rể trong vòng 3-5 năm, sau đó cô gái mới theo chồng về nhà. Trong ngày cưới, bên nhà trai, trừ ông mối, ông bố và chú rể, còn phải có 20 người đi cùng: gồm 4 chàng trai, 4 cô gái, 4 ông già, 4 bà già và 4 người gánh gạo, gánh bánh cùng trầu, rượu. Bên nhà gái đưa dâu về, trừ nàng dâu phải có từ 16-18 người. Tư trang của nàng dâu phải nhờ số trai gái bên nhà mình gánh về, không được mượn nhà trai, tư trang của cô gái mang về nhà chồngtuỳ thuộc vào số lượng chăn đệm, áo quần cô làm ra, ít nhất phải có từ 2 - 4 đôi dón (giỏ đeo bên hông) do bố hoặc anh trai làm tặng, 2 - 3 đôi chăn, 2 - 4 đôi gối. Càng nhiều đồ cô dâu mang về nhà chồng thì đám cưới càng to, nhưng các đồ vật đó phải có đôi, không được lẻ. Với người Thái, chăn gối đệm phải có đôi, vì cô dâu, chú rể khi đã thành vợ chồng sẽ sống suốt đời có đôi có lứa. Đám cưới to hay nhỏ phụ thuộc vào số đồ mang về nhà chồng. Càng nhiều đồ, cô dâu càng tự hào, hãnh diện về thành quả lao động, sự khéo léo, chăm chỉ của mình. Bố mẹ chồng cũng rất hài lòng khi con trai mình chọn được người vợ tốt nết, chăm chỉ. Ngày hôm sau, dâu rể mang ít xôi cùng trầu rượu về thăm bố mẹ vợ và cúng ma nhà, cuộc sống của đôi vợ chồng trẻ bắt đầu từ đây.

Ngày nay, tục lệ dẫn cưới gồm nồi sanh, cá sống đã giảm đi đáng kể, còn lại rất ít nhà gái thách cưới theo lễ vật cũ, đa số thách cưới bằng bánh, kẹo, tiền mặt. Mặc dù nhiều đồ vật đã được giảm bớt, nhưng chăn, đệm, vải, váy, áo của cô dâu vẫn rất cần trong ngày cưới, nếu không có sợi bông tự nhiên, các cô gái mua sợi từ bên Lào về để dệt vải chứ không được thiếu những của hồi môn đó trong ngày cưới.

Nguyễn Thị Bích Thuỷ

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video