NGHỀ DỆT CỦA NGƯỜI GIA RAI
Chất liệu tạo ra màu sắc dùng để nhuộm sợi được người Gia-rai lấy từ thực vật có sẵn trong môi trường sống của họ. Màu sắc là một thành tố hữu cơ của bố cục, tham gia vào bố cục để tạo nên chỉnh thể của trang phục. Người Gia-rai có cả một bảng màu tự nhiên thật phong phú bao gồm các màu: đen, đỏ, vàng, xanh, mỗi màu được chế từ một loại thực vật. Việc nhuộm sợi hoàn tất từ trước khi dệt vải. Sợi được chế tác từ quả cây bông và màu tự nhiên của nó bao giờ cũng là trắng, để tạo ra các màu sắc khác là cả một quá trình kinh nghiệm của người Gia-rai. Để có màu đen (htăm) hay màu xanh thẫm, họ dùng cây chàm. Các bước thao tác được tiến hành như sau: đầu tiên người Gia-rai đi bắt một loại ốc suối có tên là bràng đem giã nhỏ, đổ nước vào lọc, lấy thứ nước đó đổ vào ché ngâm khoảng một tháng. Tiếp theo, dùng đọt chuối, vỏ chuối và rễ cây kha krông, kha chót bỏ chung vào cối giã cho thật kỹ, trộn tất cả với sợi trắng tự nhiên, rồi bỏ vào ché ngâm. Khi sợi đã ngả màu đen thì đem phơi khô. Nước nhuộm còn lại được cất giữ trong ché và khi cần lại có thể sử dụng với các bước như vừa mô tả.
So sánh với người Ba-na thì việc tạo mầu đen cũng gần giống như người Gia-rai, có khác chăng chỉ là tên gọi theo ngôn ngữ dân tộc. Người Ba-na gọi mầu đen là găm, còn lá cây chàm nhuộm mầu đen là tơ ruum, về kỹ thuật làm ra mầu thì tương tự như người Gia-rai. Các màu còn lại như đỏ, vàng, xanh mà người Ba-na tọa ra không khác so với cách của người Gia-rai.
Mầu đỏ (m’yah) trong trang phục của người Gia-rai chiếm một tỉ lệ khá đậm đặc. Để tạo ra màu đỏ, người Gia-rai sử dụng “một loại quả không có lông” là nguyên liệu chính, ngoài ra còn kết hợp với vỏ cây tơnung. Người Gia-rai ở vùng Chư Pah còn tạo ra màu đỏ bằng cách dùng một loại cây có tên là nhau trộn với mỡ dê rồi đem đun thật sôi, sau đó lấy sợi tự nhiên mầu trắng nhúng vào đó, nhấc ra và nhúng vào loại nước xa bon (một loại thuốc mầu của người Lào). Thao tác đó được lặp đi lặp lại vài lần cho đến khi sợi vải có mầu đỏ tươi (thết) thì đem phơi khô.
Trong y phục của người Gia-rai, màu vàng thường được coi như nét điểm xuyến, tạo nên sắc thái hài hòa theo thẩm mỹ của họ. Một số hoa văn như hoa cây mai, hoa blang (hoa gạo) dệt bằng loại sợi màu vàng. Để tạo ra màu vàng, người Gia-rai thường dùng củ knhít (nghệ) như các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu. Ở vùng Gia-rai Aráp có một loài thực vật nữa được dùng để tạo ra màu vàng nhuộm sợi. Đó là loại lá popẹ. Phụ nữ Gia-rai thường đốt lá ấy rồi trộn với nghệ, sau đó giã nhỏ hòa với nước sôi để nhuộm. Cách làm này tạo cho sợi có mầu vàng tươi hơn nhiều so với màu tự nhiên từ nghệ.
Duy nhất chỉ có sợi màu xanh (miêk), theo người dệt, đây là màu mới được du nhập chưa lâu và chất tạo màu là phẩm nhuộm hóa học mua trên thị trường, bao gồm cả màu xanh da trời lẫn màu xanh lá cây. Ưu điểm của thứ sợi được nhuộm bằng các thảo mộc tự nhiên là sợi giữ được mầu tươi rất lâu, qua năm tháng thứ mầu đó không hề bị phai, bị nhạt. Từ các sợi với đủ thứ mầu sắc, người Gia-rai với bộ khung dệt bằng tay đã tạo ra trang phục của mình như: váy, khố, áo, khăn, chăn.
Cũng giống như một số tộc người khác ở vùng Trường Sơn-Tây Nguyên, người Gia-rai dệt bằng tay với một bộ dụng cụ được các nhà dân tộc học gọi là khung dệt kiểu Inđônêdiêng, gồm nhiều bộ phận rời nhau và chỉ khi dệt chúng mới được liên kết lại thành một hệ thống có sự tham gia trực tiếp của chính người thợ dệt đó, nói cách khác, “người dệt cũng là một bộ phận của cái khung dệt”. Bộ khung dệt này, người Gia-rai gọi là mrai, cấu tạo gồm hai đoạn nứa tròn dài khoảng 1,20m (khoóng trên và khoóng dưới), một khoóng được áp vào lòng người dệt; một khoóng được treo cố định ở trên cao, có thể là xà nhà, trong khi dệt. Trước khi dệt, sợi dọc được giăng thật thẳng và thành một vòng kín, sắp xếp làm hai tầng trên vào dưới, ngăn cách bởi một thanh gỗ gọi là chor hay chrkô. Khi luồn sợi ngang sang để liên kết với các sợi dọc có một thanh gỗ khác dùng để dập sợi ngang áp sát vào nhau, thanh gỗ đó gọi là prư.
Người phụ nữ Gia-rai không dệt trên khung cửi cố định như người Thái, người Mường, người Tày. Việc giang sợi thành một thảm chỉ dọc trước mặt người dệt được làm từ trước, rồi người phụ nữ đó ngồi một chỗ, đan sợi chỉ ngang qua thảm chỉ dọc đã định hình. Khi các sợi được giăng lên, cùng với sự tham gia của các bộ phận rời trong khung dệt kiểu Inđônêdiêng nói trên, tổng hợp lại được gọi là mrai. Khi hoàn thành một tấm vải dệt thì các bộ phận lại trở về với vị trí rời rạc ban đầu của nó. Trong vòng kín của sợi dọc, được xếp thành hai tầng trên vả dưới. Cách giăng sợi thành vòng kín đã làm cho tấm vải bị giới hạn về chiều dài. Độ dài của tấm vải chính là khoảng cách giữa hai khoóng nhân đôi (vòng kín hai tầng), độ dài này chỉ được giới hạn trong một mức độ cho phép, vì luôn luôn phải đảm bảo cho sợi dọc trước mặt người dệt được căng thẳng, trung bình mỗi tấm vải dài không quá 6 mét.
Chiều dài của tấm vải bị hạn chế bởi khoảng cách của hai khoóng nhân đôi, nhưng khổ vải thì được mở rộng hơn. Tuy người Gia-rai dệt thủ công nhưng khổ vải rộng đạt trung bình đến 80cm, vì tấm vải thoát khỏi sự khống chế ngặt nghèo đối với chiều ngang và khổ vải không bị đóng khung lại trong lòng một khung cửi cố định.
Người phụ nữ Gia-rai đan sợi ngang qua các sợi dọc để tạo nên mặt vải, được diễn ra mặt trên vòng kín của thảm dọc. Bộ khung dệt Gia-rai cho phép người dệt một cách từ từ theo nhịp đan chậm rãi của mình. Tầng trên sau khi đã được dệt thành mặt vải có thể hoán vị cho tầng dưới mới chỉ là những thảm dọc, việc luân chuyển đó cứ được diễn ra suốt trong quá trình dệt. Do việc dệt chỉ được tiến hành ở tầng trên nên ngay ở tầng này người dệt cũng phải phân thành hai tầng nhỏ hơn, cũng một tầng trên và một tầng dưới. Một tầng là các sợi lẻ 1, 3, 5, 7... một tầng là các sợi chẵn 2, 4, 6, 8... Hai tầng nhỏ ở mặt trên này được tuần tự và liên tục đảo vị trí cho nhau, trên xuống dưới, dưới lên trên và ngợc lại. Sau mỗi lần đảo, người dệt lại luồn sợi ngang qua khe hở của hai tầng vừa đảo, cứ thế liên tục điệp sợi ngang vào sợi dọc cho thành mặt vải.
Chức năng của bộ phận chrkô làm nhiệm vụ của việc đảo hai tầng nhỏ này, đều đặn, trên xuống dưới, dưới lên trên. Chrkô có tác dụng giống như chiếc go của khung dệt Việt, Mường, được người dệt nhẹ nhàng luồn qua khoảng cách nhỏ giữa hai tầng vừa đảo, sợi ngang được nằm giữa các sợi chẵn và lẻ của thảm dọc Bộ phận prư có tác dụng dập cho sợi ngang mới luồn áp chặt vào sợi dọc.
Người Gia-rai không tạo hoa văn bằng kỹ thuật in sáp ong, ghép vải màu hay thêu mà họ trực tiếp dệt hoa văn trong quá trình dệt vải. Do kỹ thuật dệt với sợi dọc chủ yếu là màu đen, màu chàm sẫm, được bố trí ngay những sợi màu tự nhiên – màu cơ bản như: đỏ, vàng, trắng - để kết hợp với sợi ngang. Chủ yếu việc phối màu sắc đã hình thành ở trong đầu và sau khi dệt kết quả sẽ có một nền vải với những màu sắc và hoa văn theo ý muốn. Kỹ thuật dệt này bắt nguồn từ kỹ thuật dệt luồn sợi như đan có đặc thù từ phương Nam. Nó khác hẳn với nền vải màu nổi rõ ở phía Bắc với kỹ thuật dệt, đan chéo mũi hay thêu lát ghép vải để tạo nên những mảng trang trí mà điển hình là các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến như: Hà Nhì, Cống, Lô Lô hay dân tộc Mông, Dao...
Nhược điểm đầu tiên và lớn nhất của kỹ thuật dệt Gia-rai là không thể dệt được một tấm vải dài bất kỳ theo ý muốn của mình. Tấm dệt đó chỉ có thể giới hạn trong khoảng 5 - 6m, tương ứng với khoảng cách của hai chiếc khoóng, vì sợi giăng theo thảm dọc và khép lại thành vòng tròn kín, vàkỹ thuật dệt của người Gia-rai có sự phối hợp của lối đan từng nút một, làm cho tốc độ dệt quá chậm.