Vẻ đẹp người phụ nữ Tày qua ca dao, tục ngữ
Bất chợt một lần, khi đi qua một đám cưới của đồng bào Tày, được nghe câu hát của bà cụ năm nay đã ngoài tám mươi, tôi đã may mắn có cơ hội khám phá ra thật nhiều điều...
Bà cụ ngồi bên bếp lửa, xung quanh là những thiếu nữ Tày tuổi mười tám, đôi mươi đang chăm chú lắng nghe. Lời cụ mộc mạc, rủ rỉ như kể truyện cổ tích cổ xưa, huyền thoại: “Ngày xưa, người Tày nói về vẻ đẹp của phụ nữgiản dị, gần gũi lắm”:
“Phụ nữ là lá, là hoa
Là sao đêm sáng, là bầu trời xanh”
Ví von người phụ nữ Tày như “lá”, như “hoa”, như “sao”, như “bầu trời xanh” là cách miêu tả tuy đơn sơ nhưng mang vẻ đẹp giản dị, trong sáng. Vẻ đẹp ấy hòa lẫn với vẻ đẹp của thiên nhiên, chan hoà với cuộc sống và môi trường cư trú của người Tày. Người con gái hiện lên thật đẹp:
“Con gái má lúm đồng tiền
Chân trắng bẹ chuối bóc
Tay thuôn búp măng mọc
Một vẻ đẹp sinh động, đẹp đến hoang sơ mà cũng quyến rũ đến lạ lùng. Trong quan niệm của người Tày, là con gái thì phải có “má lúm đồng tiền”, chân phải trắng như “bẹ chuối” mới bóc, tay phải thuôn như “búp măng” trên rừng già...
“Eo thắt đáy con mạ
Má ửng hồng bồ quân
Chân dong dỏng duyên dáng
Tóc uốn dáng đuôi gà
Mắt liếc mòn đá suối”
Duyên dáng, eo thon, má đỏ ửng hồng... vẻ đẹp tràn đầy sức sống của cô gái miền sơn cước được miêu tả một cách tinh tế. Không chỉ là vẻ đẹp hình thể, người thiếu nữ Tày còn biết làm duyên, làm dáng qua mớ tóc “đuôi gà”, “mắt liếc mòn đá suối”. Có sự khác biệt trong cách so sánh: eo của cô gái Tày không phải “thắt đáy lưng ong” như cách nói của người Kinh mà là “thắt đáy con mạ”. Sự khác biệt cho thấy, trong quan niệm của đồng bào dân tộc Tày, người phụ nữ đẹp phải là người phụ nữ vừa đẹp, vừa chăm chỉ và khỏe khoắn. Đôi mắt của người thiếu nữ Tày trong câu “mắt liếc mòn đá suối” đã để lại ấn tượng sâu đậm, góp phần tô đậm nét hình ảnh người thiếu nữ Tày Nghĩa Đô.
Bất ngờ, bà cụ bỗng cất lên một lời ru bằng tiếng Tày. Rồi cụ cười bảo: “Người phụ nữ Tày không chỉ đẹp đâu nhé mà còn biết cả hát ru nữa đấy”. Vẻ đẹp của tình mẫu tử chắt chiu từ cuộc sống lao động vất vả và được “chưng cất” thành lời ru:
“Ngủ ngon, bé ngủ cho ngon
Ngủ chờ mẹ thả gà lên rẫy cũ sườn non
Mẹ thả con vịt xuống cánh đồng ốc hến
Gà ăn thóc vãi no béo mập
Vịt ăn tép, ốc béo đầy bầu
Lấy về mổ thịt cho con ăn”
Người nghe chẳng thấy có “gió mùa thu”, “thức đủ năm canh”, chẳng có “lên núi rửa bành con voi”... mà chỉ thấy, lời ru của người mẹ Tày Nghĩa Đô có thả gà, thả vịt, cho gà ăn thóc... toàn là những công việc lao động cần mẫn hàng ngày của người phụ nữ dân tộc chịu thương, chịu khó. Rồi ngay cả cái dáng địu con (một phong tục của người Tày Nghĩa Đô) cũng được đưa vào khúc hát ru:
“Chín tháng mẹ địu con đằng trước
Năm năm mẹ cõng con trên lưng
Đằng trước địu bằng da
Đằng sau địu bằng vải”
Nuôi con lớn lên bằng tấm địu, sự gắn bó tình cảm mẹ con in dấu đậm nét qua từng hình ảnh trong lời ru. Và trong thẳm sâu tâm hồn người phụ nữ Tày, sự hi sinh, sẵn sàng nhịn đói, mặc rách để dành cả tình thương cho con luôn toả sáng:
“Mẹ mặc rách, mặc nát
Mong cho con có bát cơm đầy
Mong cho con mặc đẹp bằng chúng bạn”
Cứ như thế, qua lời kể của bà cụ những câu ca dao, tục ngữ của người Tày được lưu truyền theo cách truyền miệng đã giúp ta cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp cả về hình thể lẫn tâm hồn của người phụ nữ Tày miền sơn cước. Lời ca tụng dành cho họ được cất lên từ nhạc điệu của tâm hồn những người dân chân chất, mộc mạc; thứ nhạc điệu được thoát thai từ chính cuộc sống mưu sinh vất vả, miệt mài trải dài theo năm tháng nơi những bản làng mờ sương của vùng đất Nghĩa Đô.
Đêm đã về khuya, bà cụ và đám con gái trong bản vẫn còn ngồi bên bếp lửa. Bà cụ thôi không kể nữa nhưng các cô gái thì vẫn ngồi im như để lắng sâu vào tâm tưởng những món ăn tinh thần từ bao đời nay của cha ông để lại. Ngọn lửa bên bếp vẫn cháy bập bùng soi sáng cả không gian của căn nhà sàn...