Kinh tế trang trại ở Đà Nẵng - Thực trạng và triển vọng

Một số hộ nông dân và các thành phần xã hội, không thỏa mãn được nhu cầu phát triển sản xuất, tìm cách bứt phá để mở rộng sản xuất theo hướng hàng hóa, có ứng dụng khoa học kỹ thuật, làm ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho xã hội và làm giàu cho chính mình.
Điểm qua các trang trại ở Đà Nẵng có thể thấy rằng, những trang trại có quy mô đầu tư lớn về chiều sâu, đa phần những chủ nhân của nó là những “nông dân nghiệp dư”, những cán bộ viên chức, sĩ quan quân đội sau khi nghỉ chế độ, hoặc một số cán bộ, công chức còn đương chức, có tâm huyết với lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, tuy cư trú ở nội thành nhưng tìm về vùng trung du, miền núi, ven biển, tận dụng khai thác tiềm năng đất trống, đồi núi trọc, ao hồ mặt nước, mạnh dạn mở mang, khai phá, làm giàu bằng con đường đầu tư vào làm kinh tế trang trại.
Nhìn lại quá trình phát triển trang trại ở Đà Nẵng, có thể lấy mốc hình thành từ năm 1996 và phát triển rộ nhất vào đầu những năm 2000. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện toàn thành phố có hơn 200 trang trại, gồm các loại hình sản xuất đa dạng như: kinh doanh tổng hợp; nông - lâm kết hợp; trồng trọt kết hợp chăn nuôi; nuôi trồng thủy sản đến trang trại chuyên chăn nuôi bò, heo, gia cầm và cả những trang trại chăn nuôi chuyên một loại vật nuôi cao cấp như đà điểu, baba... Với lực lượng các chủ trang trại có trình độ văn hóa từ cấp II trở lên chiếm tỷ lệ 72% và trình độ chuyên môn đại học, trung cấp là 28%, tuy chưa phải là một tỷ lệ cao, nhưng đó lại là những nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển mang tính bền vững của kinh tế trang trại ở Đà Nẵng. Không ít người trong số các chủ trang trại đó, có khả năng tổ chức quản lý và kỹ thuật sản xuất được tích lũy do kinh nghiệm và tự tìm hiểu qua tài liệu, sách báo, đài và các cơ quan chuyên môn. Nhìn chung, đa phần họ là những người có bề dày kinh nghiệm trong “trường đời”, quyết chí làm giàu, có chút “máu” phiêu lưu nhưng cũng đầy tự tin và pha chút… lãng mạn.
Quá trình "Đô thị hóa" ở Đà Nẵng đang diễn ra với tốc độ nhanh, dẫn đến tình trạng một bộ phận nông dân mất đất sản xuất, trong khi một số nông dân khác lại không còn tâm huyết với mảnh ruộng, mảnh vườn của mình, không ít người có tâm lý chờ quy hoạch, chờ giải tỏa để nhận tiền đền bù… Trong bối cảnh đó, sự “bỏ phố lên non” của những người có tâm huyết với việc làm giàu bằng việc làm bạn với cây với con, với đồi với rừng rất đáng được ghi nhận.
Do tính chất cơ bản của sản xuất trang trại là sản xuất hàng hóa tập trung, không thể làm theo lối “đánh bạc với trời”, nên có thể nói, KTTT đang là động lực để tạo ra một diện mạo mới cho một nền sản xuất nông nghiệp mang tính hàng hóa của thành phố.
Trong khi nông dân ở các vùng nông thôn Đà Nẵng hiện nay, đa phần vẫn canh tác theo lối quảng canh, ít đầu tư về mặt kỹ thuật, tâm lý tiểu nông vẫn còn khá phổ biến v.v…thì sự hiện diện của thành phần kinh tế mới trỗi dậy - những người làm kinh tế trang trại - tạo ra một luồng sinh khí mới, bước đầu cho thấy, họ có thể đáp ứng được yêu cầu về một nền sản xuất mang dáng dấp của chất lượng, của công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Có dịp đến những trang trại ở huyện Hòa Vang như trang trại nuôi đà điểu của anh Trần Minh Đức, trang trang trại nuôi ba ba của chị Lê Thị Mỹ Ánh tại Hòa Phú, trang trại nuôi bò vỗ béo của ông Đoàn Văn Cần ở Hòa Ninh, trang trại trồng hoa của anh Đỗ Bá Đồng, Hòa Phát v.v…sẽ thấy thấp thoáng của văn minh, hiện đại trong quản lý, trong ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng như chủ động trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ của những chủ trang trại này. Nói không quá lời, trang trại của họ có thể xem là mô hình mẫu về tính hiệu quả trong quản lý và ứng dụng kỹ thuật, có thể đạt tầm cỡ, ít ra cũng ở khu vực miền Trung. Đối với một thành phố Đô thị loại I, một trọng điểm kinh tế - xã hội vùng như Đà Nẵng, dù lĩnh vực thủy sản – nông lâm chỉ xếp "khiêm tốn" sau công nghiệp, du lịch và dịch vụ thì những mô hình kinh tế trang trại như vậy có là rất có ý nghĩa. Đây là những hạt nhân thúc đẩy, đánh thức tiềm năng về đất đai, mặt nước, giải quyết việc làm cho những vùng vốn trước đây là đất trống, đồi trọc, đời sống kinh tế của nông dân còn nhiều khó khăn.
Trong khi có những dự án nhằm thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội và xóa đói giảm nghèo cho những xã trung du, miền núi còn nhiều khó khăn của thành phố, không ít mô hình vẫn còn cần phải củng cố, điều chỉnh để có cơ sở để nhân rộng, thì sự xuất hiện của các trang trại tại những địa phương này có một vai trò quan trọng. Loại hình kinh tế mới mẻ này đã trở thành “điểm nhấn” cho yếu tố sản xuất mang sắc thái hàng hóa, có tác dụng tích cực không thể phủ nhận.
Những bước đi ban đầu về Kinh tế trang trại ở Đà Nẵng tuy là mới mẻ nhưng định hướng có trọng tâm, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy mà các mô hình kinh tế trang trại, có thể ví như những “đốm lửa” đang được nhen nhóm, vì vậy rất cần được duy trì và phát huy để tạo nên những “đám cháy” lớn hơn. Đã đến lúc sự hiện diện của yếu tố Nhà nước thông qua loại hình kinh tế này không chỉ bằng chủ trương mang tính vĩ mô, mà phải là thể hiện của những chính sách cụ thể và thiết thực hơn. Có thể thể hiện sự quan tâm đó trước hết ở việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; khẳng định được vai trò chủ đạo trong “Mối liên kết 4 nhà”: Nhà nước -Nhà nông ( chủ trang trại )- Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp; hỗ trợ tư vấn về KHKT; thường xuyên được cập nhật thông tin về các nhu cầu và diễn biến của thị trường; hỗ trợ đầu tư và tín dụng; tạo điều kiện để các trang trại tiếp cận các nguồn hỗ trợ và các tổ chức phi chính phủ; liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để mở rộng quy mô sản xuất, tiêu thụ sản phẩm…
Đôi điều về kinh tế trang trại ở Đà Nẵng để thấy rằng, sự hiện diện của thành phần kinh tế này, đang tạo ra một sức sống mới cho diện mạo nông nghiệp- nông thôn của thành phố. Vùng ngoại ô, từ đồng bằng đến vùng trung du miền núi, tiềm năng đang từng bước được khai thác và phát huy. Cũng từ đây đang hé mở một loại hình kinh tế tiêu biểu cho một nền nông nghiệp của một Đà Nẵng mới, đang tự tin đi lên trên chặng đường Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.