Tài liệu sinh hoạt hội viên Quý I/2010

31/01/2010
Phụ nữ Việt Nam tự hào, biết ơn và nguyện mãi mãi đi theo Đảng

1.Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức, lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/930) là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng của cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

Những năm cuối thế kỷ IXX, đầu thế kỷ XX, trên thế giới phong trào giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa. Thành công của Cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917 là sự kiện lịch sử vĩ đại, đưa chủ nghĩa Mác- Lênin từ lý luận trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc; nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.

Trong nước, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến Việt Nam thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam bị phân hóa sâu sắc về kinh tế, văn hóa, giáo dục. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam bị phân hóa nặng nề và đều mang thân phận người dân mất nước với hai tròng áp bức bóc lột của thực dân và phong kiến tay sai.

Trong bối cảnh đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi, là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Tuy vậy các phong trào này đều lần lượt thất bại do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết.

Giữa lúc cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước thì người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) đã ra đi tìm đường cứu nước. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác- Lênin, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin, vạch ra phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngày 3/2/930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về con đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách áp bức của thực dân, phong kiến, thoát khỏi bần cùng, lạc hậu. Qua 80 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng ta đã thực hiện thắng lợi sứ mệnh của một Đảng cầm quyền, tiên phong trong công cuộc giành độc lập dân tộc và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử ấy được thể hiện trên các phương diện sau đây:

Thứ nhất, Đảng đã lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Ngay từ khi mới ra đời, với đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp, tầng lớp yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn tay sai phong kiến để giải phóng dân tộc. Giữa đêm trường nô lệ tối tăm, Đảng đã thắp lên ngọn đuốc sáng, dẫn dắt cách mạng Việt Nam và toàn dân tộc vùng lên cởi bỏ xiềng gông nô lệ, lật nhào chế độ thực dânphong kiến tồn tại trong gần một thế kỷ, giành lại quyền làm chủ thực sự cho người dân lao động. Trải qua 15 năm chiến đấu gian khổ với bao hy sinh mất mát, thành công của Cách mạng Tháng Tám và sự khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945 đã đưa dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

Thứ hai, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ vừa được thành lập đã bị thù trong giặc ngoài đe dọa, phải đối mặt với 3 thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Trong hoàn cảnh vận mệnh đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương, quốc sách đúng đắn, toàn diện trên mọi lĩnh vực, củng cố, giữ vững chính quyền, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, với quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đánh dấu bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã làm sáng tỏ chân lý: “Một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng khi đã đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác-Lênin để giành độc lập và dân chủ thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược”.

Thứ 3, Đảng đã lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Từ năm 1954 đến năm 1975, Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đã tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Trải qua 21 năm chiến đấu kiên cường, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, từng bước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc của đế quốc Mỹ. Thắng lợi oanh liệt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước. Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.

Thứ tư, Đảng đã lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tiến hành thành công công cuộc đổi mới đất nước.

Sau thắng lợi của mùa xuân 1975, non sông thu về một mối, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với muôn vàn khó khăn, thách thức. Đảng ta đã vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Ngọn cờ Đổi mới được giương cao trong Đại hội toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1996); vượt qua khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực (1997-1998); khắc phục có hiệu quả ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay; kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị, xã hội ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững. Vai trò và vị trí của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội mà nước ta đã giành được trong công cuộc đổi mới đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

2. Quan điểm của Đảng ta về giải phóng phụ nữ và công tác phụ nữ - yếu tố quyết định cho sự phát triển của Hội LHPN và phong trào phụ nữ Việt Nam

Cùng với việc ghi nhận vai trò, vị trí của phụ nữ, khẳng định những đóng góp của phụ nữ trong tiến trình lịch sử của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời khẳng định: một trong những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam là giải phóng phụ nữ và giải phóng phụ nữ phải gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã chỉ rõ: “Nam nữ bình quyền”. Nghị quyết Hội nghị TW tháng 10- 1930 cũng ghi nhận: “Lực lượng cách mạng của phụ nữ là một lực lượng trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia vào những cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thắng lợi được”. Đảng đặt ra yêu cầu vận động phụ nữ tham gia các đoàn thể cách mạng (Công hội, Nông hội) và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham gia cách mạng.

Chính vì vậy, ngày 20/10/1930, Hội Phụ nữ Giải phóng - tiền thân của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chính thức được thành lập. Sự kiện lịch sử này thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, đối với phong trào phụ nữ và tổ chức Hội phụ nữ. Vai trò của Hội LHPN Việt Nam tiếp tục được ghi nhận và khẳng định trong suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, vai trò của tổ chức Hội LHPN được Đảng ta xác định: “Hội LHPN Việt Nam là tổ chức đại diện cho lợi ích hợp pháp của phụ nữ, là trung tâm tập hợp, đoàn kết phụ nữ Việt Nam, hướng dẫn và động viên chị em phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, bình đẳng nam nữ, vì sự phát triển và hạnh phúc của nam, nữ, vì sự nghiệp đổi mới, thực hiện dân giàu, nước mạnh”[1].

Quan điểm của Đảng về giải phóng phụ nữ và công tác phụ nữ được thể hiện nhất quán và xuyên suốt qua các thời kỳ; được ghi nhận trong các nghị quyết Đại hội Đảng, nhất là trong các chỉ thị, nghị quyết: Nghị quyết số 152-NQ/TW về Một số vấn đề về tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận” (ngày 10/1/1967), Nghị quyết số 153-NQ/TW về Công tác cán bộ nữ (ngày 10/1/1967), Chỉ thị số 44 - CT/TW về Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ(ngày 7/6/1984), Nghị quyết số 04 - NQ/TW về Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới (ngày 12/7/1993), Chỉ thị số 37 - CT/TW về Một số vấn đề về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới (ngày 29/9/1993), Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (ngày 27/4/2007)... Quan điểm ấy được cụ thể hoá vào các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992, ngày càng hoàn thiện, cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật khác. Luật Bình đẳng giới có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007 đánh dấu bước tiến bộ vượt bậc về mặt thể chế và luật pháp của Việt Nam trong việc thực hiện bình đẳng giới trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa thông tin, thể thao và bình đẳng giới trong gia đình. Sự ghi nhận của Đảng về vai trò, vị trí của phụ nữ cũng như việc tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy vai trò và vị trí của mình đã giúp cho phụ nữ Việt Nam thực sự trở thành lực lượng cách mạng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, bảo vệ, xây dựng đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội LHPN Việt Nam đã thể hiện rõ vai trò là tổ chức chính trị xã hội, tập hợp đông đảo các tầng lớp phụ nữ; đại diện, chăm lo cho quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ; tổ chức và lãnh đạo phong trào phụ nữ phù hợp với từng thời kỳ cách mạng. Trong mỗi giai đoạn phát triển, Hội luôn giữ vững vai trò nòng cốt trong phong trào phụ nữ; tích cực trong các hoạt động vì hòa bình, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc và lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới. Hội đã tập hợp, đoàn kết đông đảo mọi tầng lớp phụ nữ, phát huy truyền thống yêu nước, đem tài năng, trí tuệ góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu đẹp, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phụ nữ là một trong những lực lượng nòng cốt làm nên cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, Cách mạng Tháng Tám 1945 và hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, chống Mỹ. Tiêu biểu là phong trào Năm tốt của phụ nữ miền Nam và phong trào Ba đảm đang của phụ nữ miền Bắc trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Trong cuộc chiến đấu cam go và oanh liệt ấy, trên mặt trận cả hai miền Nam - Bắc đã xuất hiện lớp lớp phụ nữ tiêu biểu, làm giàu thêm truyền thống của phụ nữ Việt Nam, xứng đáng với tám chữ vàng mà Hồ Chủ Tịch đã khen tặng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.

Ngay sau khi thống nhất đất nước, đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong thời kỳ mới, Hội LHPN Việt Nam đã phát động phong trào “ Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” nhằm giáo dục, động viên phụ nữ cả nước làm nghĩa vụ công dân và trách nhiệm làm mẹ, đồng thời bồi dưỡng cho phụ nữ ý thức phấn đấu thực hiện nam nữ bình đẳng, đưa phụ nữ tiến lên một bước quan trọng. Ngày 8/3/1989, Hội LHPN Việt Nam phát động hai cuộc vận động trong toàn thể cán bộ, hội viên với nội dung “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” và “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học” nhằm phát huy tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết, giúp đỡ nhau vươn lên xóa đói giảm nghèo; chăm sóc, giáo dục trẻ em, tạo nền tảng cơ bản cho sự phát triển chung của xã hội. Từ kết quả đạt được của hai cuộc vận động, Hội LHPN Việt Nam đã phát động phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” lôi cuốn hàng triệu lượt phụ nữ tham gia, bằng nghị lực và ý chí quyết tâm vươn lên xóa đói, giảm nghèo, làm giàu cho gia đình và xã hội. Nhiều tấm gương phụ nữ tiêu biểu xuất hiện đã ngày càng tô thắm truyền thống của phụ nữ Việt Nam và của Hội LHPN Việt Nam. Bên cạnh những đóng góp to lớn cho sự phát triển chung của đất nước, phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới càng ý thức rõ hơn vai trò và trách nhiệm của mình trong việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc với phương châm: gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt; quan tâm giáo dục con cái, thanh thiếu niên thành những công dân tương lai vừa hồng, vừa chuyên.

3.Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Việt Nam tự hào, biết ơn và mãi mãi đi theo Đảng

Dưới ngọn cờ lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, phụ nữ Việt Nam tự hào, biết ơn và nguyện mãi mãi đi theo con đường mà Đảng và Bác đã chọn, quyết tâm phấn đấu, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và công cuộc đổi mới đất nước.

* Đối với Hội LHPN các cấp

- Tập trung công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao lòng tự hào và niềm tin, trách nhiệm của cán bộ, hội viên phụ nữ đối với Đảng, góp phần giữ gìn, bồi đắp và phát huy những giá trị truyền thống của phụ nữ Việt Nam, của Hội LHPN Việt Nam.

- Không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; thực hiện tốt vai trò đại diện quyền làm chủ của phụ nữ; chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành một số chính sách, luật pháp có ý nghĩa chiến lược về công tác phụ nữ, cán bộ nữ; tham gia giám sát việc thực thi pháp luật, phản biện xã hội; thực hiện bình đẳng giới, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy năng lực và sức sáng tạo trên mọi lĩnh vực. Tuyên truyền và vận động cán bộ, hội viên phụ nữ thực hiện tiêu chí người phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước với các nội dung: “Có lòng yêu nước, có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa và lòng nhân hậu”.

- Đẩy mạnh Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, triển khai có hiệu quả chủ đề Cuộc vận động năm 2010: Học tập và làm theo Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh,“ là đạo đức, là văn minh” gắn với công tác tổ chức và đại hội Đảng các cấp làm chuyển biến mạnh mẽ công tác xây dựng Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới; nêu cao tinh thần phê và tự phê, tích cực phòng chống tham nhũng trong cán bộ, hội viên, phụ nữ...

- Chủ động, tích cực trong công tác phát triển đảng viên nữ; công tác tham mưu, tạo nguồn và giới thiệu nguồn cán bộ nữ cho Đảng, phấn đấu góp phần nâng tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp uỷ trong nhiệm kỳ mới ở tất cả các cấp.

* Đối với cán bộ, hội viên phụ nữ

- Tin tưởng tuyệt đối vào đường lối lãnh đạo của Đảng, nguyện đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã chọn. Những thành quả mà toàn Đảng, toàn dân ta đạt được trong thời gian qua có công sức đóng góp to lớn của các tầng lớp phụ nữ ở mọi miền Tổ quốc, vì vậy mỗi người phụ nữ Việt Nam hôm nay cần phải nhận thức đầy đủ, trân trọng và tự hào các thành quả cách mạng mà bao thế hệ người Việt Nam đã không tiếc xương máu, công sức xây dựng nên.

Tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, giữ vững bản lĩnh chính trị và lập trường tư tưởng trước các thủ đoạn, âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực phản động, bảo vệ uy tín của Đảng. Nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động tham gia phát hiện, tố giác tội phạm, giáo dục, cảm hóa người lầm lỡ góp phần xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc trong thời kỳ mới.

- Phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần xác định rõ vai trò, nhiệm vụ của mình trong gia đình và xã hội để có thêm nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đổi mới đất nước, xây dựng gia đình hạnh phúc. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình không chỉ là người mẹ, người vợ, người chị, người em gái thân thương mà còn là người thầy đầu tiên của con trẻ, vì vậy mỗi người phụ nữ cần trau dồi đạo đức, phẩm chất, tích cực học tập nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt, khẳng định vị thế của mình trong gia đình và trong xã hội.

- Nghiêm chỉnh thực hiện các chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt vai trò người công dân gương mẫu, người cán bộ mẫu mực; phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng.

- Thực hiện tốt phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn với Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” bằng những hành động cụ thể, thiết thực. Phấn đấu đạt các tiêu chí về người phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

- Nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết, ý thức trách nhiệm với gia đình, cộng đồng và xã hội./.




[1] Nghị quyết số 04- NQ/TW ngày 12/07/1993)

Ban Tuyên giáo - TW Hội LHPN Việt Nam.

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video