Công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới của Hội LHPN Việt Nam nhiệm kỳ 2022 - 2027: Một số kết quả và những vấn đề đặt ra

Tóm tắt
Là một tổ chức chính trị - xã hội, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ; phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới (BĐG), Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (Hội LHPN/Hội) luôn coi các vấn đề liên quan đến phụ nữ và thúc đẩy BĐG là trung tâm. Bởi vậy, BĐG vốn được coi là yếu tố lồng ghép vào tất cả các hoạt động khác nhau trong hệ thống Hội. Tuy nhiên, từ Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII - nhiệm kỳ 2022 - 2027, “vận động xã hội thực hiện BĐG” chính thức trở thành một nội dung bộ phận của Nhiệm vụ 2 (Tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị; chú trọng giám sát, phản biện xã hội; vận động xã hội thực hiện BĐG) - cho thấy, Nghị quyết Đại hội đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác vận động xã hội thực hiện BĐG - với yêu cầu đo lường kết quả cụ thể. Sau nửa nhiệm kỳ triển khai, công tác vận động xã hội thực hiện BĐG của Hội đã đạt được nhiều kết quả vượt trội nhưng bên cạnh đó, cũng đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm trong tình hình mới. Trên cơ sở tổng quan tài liệu kết hợp với phân tích số liệu của các cấp Hội trong triển khai Nghị quyết Đại hội đến giữa nhiệm kỳ, bài viết sẽ làm rõ một số kết quả thực hiện, những khó khăn, thách thức và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường công tác vận động xã hội thực hiện BĐG của Hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII và góp phần thực hiện các mục tiêu quốc gia về BĐG và thúc đẩy BĐG nói chung.
Từ khóa: Vận động xã hội; bình đẳng giới; Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; nhiệm vụ 2.
1. Đặt vấn đề
Ngay sau khi được thành lập (Tháng 2/1930), Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt ra nhiệm vụ tuyên truyền, vận động và tổ chức, lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương tháng 10/1930, Đảng đã ra Nghị quyết đầu tiên về công tác vận động phụ nữ, khẳng định vai trò và khả năng cách mạng to lớn của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng, và chủ trương: "Đảng cần phải tổ chức ra các đoàn thể phụ nữ, phụ nữ hiệp hội, mục đích là mưu quyền cho phụ nữ, làm cho phụ nữ triệt để giải phóng" (Hội LHPN Việt Nam, 2016, tr.57). Là một tổ chức liên hiệp do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và lãnh đạo, Hội ra đời nhằm thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng là nâng cao địa vị của phụ nữ, thực hiện nam-nữ bình quyền, thúc đẩy bình đẳng giới thông qua bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, đưa phụ nữ tham gia vào các phong trào cách mạng, làm cho phụ nữ triệt để giải phóng, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng của Đảng, của dân tộc theo từng giai đoạn lịch sử.
Với điểm xuất phát đó, vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng và ngày càng có ý nghĩa mang tầm chiến lược của các cấp Hội. Bài viết sẽ tập trung làm rõ tình hình thực hiện công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới của Hội LHPN Việt Nam nhiệm kỳ 2022 - 2027, về một số kết quả chủ yếu, những vấn đề đặt ra và giải pháp.
2. Phương pháp nghiên cứu và khái niệm cơ bản
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp tổng quan tài liệu, kết hợp với thu thập thông tin và tổng hợp số liệu hoạt động thực tiễn tại địa phương thông qua hệ thống báo cáo của Hội LHPN các tỉnh/thành phố và các Ban/đơn vị trực thuộc Trung ương Hội.
- Khái niệm công cụ: Bình đẳng giới: là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó (Khoản 3, Điều 5 Luật Bình đẳng giới 2006).
Vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới (BĐG) là một khái niệm rất rộng. Vì “xã hội” ở đây được hiểu là cả hệ thống chính trị và người dân - bao gồm các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, cá nhân, gia đình và cộng đồng... Bởi vậy, ở nghĩa rộng nhất, mọi hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của Hội LHPN Việt Nam nhằm tác động đến các đối tượng khác nhau trong xã hội để hướng đến mục tiêu bình đẳng giới đều có thể coi là “vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới”, như: Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và tham gia quản lý Nhà nước về BĐG; Tham gia giám sát việc thực thi pháp luật và thực hiện phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật về BĐG; Tổ chức các hoạt động hỗ trợ phụ nữ góp phần thực hiện mục tiêu BĐG; Tham mưu thực hiện công tác cán bộ nữ; Thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em gái....
Tuy nhiên, bài viết chỉ xem xét công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới theo quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2022-2027), nghĩa là một phần của Nhiệm vụ trọng tâm 2: Tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị; chú trọng giám sát, phản biện xã hội; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới.
Dưới góc độ này, bài viết coi “vận động xã hội” được hiểu theo nghĩa hẹp, và tương tự với khái niệm “tuyên truyền”. Theo Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương (2000), “Tuyên truyền là truyền bá, giáo dục, giải thích nhằm chuyển biến và nâng cao về nhận thức; bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, xây dựng thành niềm tin; thúc đẩy mọi người hành động một cách tự giác, nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra” (Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương, 1999, tr.110-111).
Theo đó, Vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới được hiểu là việc tuyên truyền, giáo dục, giải thích tạo chuyển biến và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, các cơ quan, tổ chức và mọi người dân về bình đẳng giới; cổ vũ, thúc đẩy họ hành động một cách tự giác theo các chuẩn mực và mục tiêu bình đẳng giới, nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, chính trị-xã hội đã đề ra, thúc đẩy sự phát triển bền vững, công bằng và tiến bộ xã hội.
Khái niệm trên có thể lưu ý một số vấn đề sau:
Đối tượng vận động là cả hệ thống chính trị và người dân - bao gồm các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, cá nhân, gia đình và cộng đồng.
Phương pháp vận động chủ yếu là tuyên truyền, giáo dục, giải thích, hướng dẫn, khuyến khích, cổ vũ, động viên…
Nội dung vận động: là các chuẩn mực về bình đẳng giới và mục tiêu bình đẳng giới theo chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; đảm bảo phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Mục tiêu vận động: tạo chuyển biến trong nhận thức, hành động và trách nhiệm của các cấp, các ngành và mọi người dân về bình đẳng giới, để hành động một cách tự giác theo các chuẩn mực và mục tiêu bình đẳng giới nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, chính trị-xã hội của cơ quan, tổ chức và địa phương cũng như của đất nước; hướng đến phát triển bền vững, công bằng và tiến bộ xã hội.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Bối cảnh pháp lý liên quan đến trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới
* Luật pháp quốc tế về bình đẳng giới mà Việt Nam tham gia thực hiện
Một số văn kiện quốc tế quan trọng về bình đẳng giới mà Việt Nam tham gia thực hiện có thể kể đến:
Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) của Liên hợp quốc thông qua vào ngày 18-12-1979, có hiệu lực từ ngày 3-9-1981: Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia công ước vào 29/7/1980 phê chuẩn vào 27/11/1981. Đây được coi là công cụ pháp lý bao trùm/toàn diện nhất; đưa ra những nguyên tắc cơ bản cho việc thúc đẩy bình đẳng giới, công bằng giới và thường được đề cập đến như một đạo luật về quyền của phụ nữ.
Tuyên bố và cương lĩnh hành động Bắc Kinh được thông qua tại Hôi nghị lần thứ 4 của Liên hợp quốc về Phụ nữ vào năm 1995- là một chương trình nghị sự hành động với mục tiêu loại bỏ tất cả trở ngại cho biệc tham gia chủ động của phụ nữ trong tất cả lĩnh vực của đời sống công chúng và cá nhân. Trong đó, lần đầu tiên nhìn nhận lồng ghép giới là một chiến lược toàn cầu để thúc đẩy bình đằng giới; bao hàm lồng ghép giới trong nghèo đói; giáo dục và đào tạo phụ nữ; kinh tế; quyền lực và ra quyết định…
Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền của người bản địa (UNDRIP) năm 2007: Tuyên bố rõ ràng rằng tất cả các quyền và sự tự do phải được đảm bảo một cách bình đẳng đối với các cá nhân nam giới và nữ giới người bản địa/dân tộc thiểu số; Đảm bảo rằng sự quan cụ thể là dành ho những quyền và nhu cầu đặc biệt của phụ nữ người dân tộc thiểu số trong việ thực thi; Phụ nữ và trẻ em dân tộc thiểu số được bảo vệ đầy đủ và đảm bào chống lại tất cả các hành vi bạo hành và phân biệt…
Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên hợp quốc: Chương trình Nghị sự đến năm 2030 với 17 mục tiêu phát triển bền vững chính thức được thông qua ngày 25/9/2015 có độ bao phủ chính sách phổ quát, rộng lớn, toàn diện, với mục tiêu không để ai bị bỏ lại phía sau. Trong đó có Mục tiêu số 5 về Đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái, cụ thể là: Chấm dứt mọi sự phân biệt chống lại phụ nữ và trẻ em gái; Loại bỏ mọi hình thức bạo lực và việc thực hành có hại; Thừa nhận và đánh giá cao các công việc không dược trả tiền và việc nội trợ; Đảm bảo sự tham gia đầy đủ và có hiệu của của phụ nữ và cơ hội bình đẳng cho vị trí lãnh đạo; Đảm bảo việc tiếp cận toàn diện đến sức khoẻ và quyền sinh sản và tình dục; và thực hiện đổi mới quyền bình đẳng của phụ nữ đối với các nguồn lực kinh tế.
Một số chính sách - luật pháp cơ bản liên quan đến trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới
Ngoài ra, hàng loạt văn bản dưới luật, các quy định, chương trình, dự án, đề án được ban hành đã tạo khung khổ pháp lý và cơ chế thuận lợi để Hội LHPN Việt Nam tham gia vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới nói riêng và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức nói chung, như: Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 3/3/2021 của Chính phủ về Ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 (quy định trách nhiệm của Hội trong triển khai Chiến lược); Quyết định Số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ Về việc ban hành kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là cơ quan phối hợp trong thực hiện tất cả các mục tiêu thành phần của Mục tiêu 5 “Đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái”); Giao Hội LHPN Việt Nam tham gia và chủ trì triển khai một số chương trình, đề án liên quan đến bình đẳng giới, như: Quyết định số 938/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017 - 2027” (Đề án 938); Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, trong đó, giao Hội LHPN Việt Nam chủ trì dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” (sau đây được gọi tắt là Dự án 8); Các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng Nông thôn mới và giảm nghèo bền vững; Quyết định số 01/QĐ-TTg ngày 3/1/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Hỗ trợ hợp tác xã do phụ nữ tham gia quản lý, tạo việc làm cho lao động nữ đến năm 2030" (Đề án 01)…
3.2. Sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc thực hiện nam nữ bình quyền, cũng như vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới đã được hàm chứa và mang tính bao trùm các hoạt động của Hội LHPN Việt Nam từ khi ra đời đến nay. Trong bối cảnh bình đẳng giới ngày càng được coi trọng như là một trong những mục tiêu và phương thức đạt được sự phát triển bền vững– cả ở cấp độ quốc tế và quốc gia, từ Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XI (nhiệm kỳ 2012-2017) cho đến nay, vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới đã được thừa nhận trong Điều lệ Hội như là một trong những chức năng chính của tổ chức Hội LHPN Việt Nam. Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII nhiệm kỳ 2022- 2027 đánh dấu một bước phát triển mới, khi không chỉ thừa nhận chức năng vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới mà còn coi đây là nội dung quan trọng của một trong 3 nhiệm vụ trọng tâm về: “Tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị; chú trọng giám sát, phản biện xã hội; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới” (Nhiệm vụ 2). Việc đưa công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới trở thành một trong những nội dung của nhiệm vụ trọng tâm trong Nghị quyết Đại hội đặt ra yêu cầu cao hơn và đảm bảo nội dung này được cụ thể hóa và triển khai xuyên suốt đến tất cả các cấp Hội- theo kế hoạch từng năm cũng như cả nhiệm kỳ, với các tiêu chí đo lường, đánh giá kết quả hoạt động rõ ràng.
Hơn nữa, Chiến lược phát triển Hội LHPN Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2035 xác định tầm nhìn phát triển của Hội “Là tổ chức tiên phong hành động vì bình đẳng giới và phát triển của phụ nữ”. Hai trong số 6 nhiệm vụ chiến lược phát triển tổ chức Hội là: Khẳng định vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ, vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới (nhiệm vụ 1), và Trở thành tổ chức hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả, chủ động tham gia giải quyết các vấn đề của phụ nữ, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới trong khu vực và quốc tế (nhiệm vụ 3). Có thể nói, hành động vì bình đẳng giới, đảm bảo an sinh xã hội đã trở thành một trục chính tác động và định hướng cho phương hướng, cách thức và các hoạt động của Hội LHPN Việt Nam trong tình hình mới.
3.3. Thực trạng công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Công tác tuyên truyền, vận động xã hội thực hiện đẳng giới là một thế mạnh của Hội, với nhiều hình thức tuyên truyền, vận động đa dạng, tác động đến các nhóm đối tượng khác nhau trong xã hội, bao gồm các nhà hoạch định chính sách, các nhà lãnh đạo, quản lý các cấp các ngành, các tổ chức xã hội, hội viên, phụ nữ và người dân… Qua đó, góp phần xóa bỏ những hành vi có hại, các định kiến và khuôn mẫu giới trong gia đình và cộng đồng, nâng cao nhận thức và thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới, với một số điểm nổi bật sau:
3.3.1. Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về bình đẳng giới
Các cấp Hội tích cực tổ chức các hoạt động triển khai chính sách - pháp luật về bình đẳng giới theo chức trách, nhiệm vụ của Hội, đồng thời đẩy mạnh truyền thông, phổ biến, giáo dục chủ trương của Đảng, chính sách - pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới, trọng tâm là Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và Chỉ thị số 21-CT/TW của Ban Bí thư (khóa XII) Chỉ thị số 21/CT-TW, ngày 20/1/2018 “Về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới”; Luật Bình đẳng giới 2007; Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021- 2030; Chương trình truyền thông về Bình đẳng giới đến năm 2030; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022; Dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030...
Các hình thức tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng đa dạng, đổi mới, trong đó, vừa truyền thông trực tiếp thông qua tổ chức các sự kiện, hoạt động hưởng ứng các ngày truyền thống, như: Ngày Gia đình Việt Nam, Ngày Quốc tế phụ nữ 8/3; Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10; cũng như qua các Hội thảo, hội nghị, tập huấn, sinh hoạt chi/tổ phụ nữ, loa phát thanh, tổ chức Hội nghị tư vấn pháp luật lồng ghép với phiên toà giả định về phòng chống bạo lực, xâm hại phụ nữ và trẻ em, phòng chống bạo lực gia đình …; vừa đẩy mạnh truyền thông trên không gian mạng (Facebook, Zalo, Fanpage, Website …). Hình thức truyền thông ấn tượng, phát huy hiệu quả cao được sử dụng khá nhiều hiện nay là tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật. Chẳng hạn, trong năm 2022, Trung ương Hội đã tổ chức cuộc thi trực tuyến “Tìm hiểu kiến thức Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022” trên Cổng Thông tin điện tử của Hội và Fanpage của Hội, thu hút sự hưởng ứng nhiệt tình của các cấp Hội và các tầng lớp phụ nữ trong cả nước. Sau 6 tuần thi, có gần 184.000 cán bộ, hội viên, phụ nữ tham gia cuộc thi, trong đó có hơn 7.100 người dân tộc thiểu số.
Đến giữa nhiệm kỳ, các cấp Hội đã tổ chức 236.394 số cuộc “Ngày Phụ nữ với Pháp luật” hưởng ứng Ngày pháp luật Việt Nam (ngày 9/11 hằng năm), tập trung vào chính sách pháp luật về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực, xâm hại phụ nữ, trẻ em, bạo lực gia đình (tổng hợp số liệu báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ của Hội LHPN các tỉnh/thành đến hết tháng 8/2024). Tính riêng trong năm 2023, đã có 20.827 cuộc tuyên truyền “Ngày Phụ nữ với Pháp luật” được tổ chức nhằm hưởng ứng Ngày pháp luật Việt Nam, thu hút sự tham gia của gần 600.000 người, góp phần phổ biến, giáo dục pháp luật, chủ trương chính sách về BĐG đến với đông đảo người dân.
3.3.2. Tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức và trang bị kiến thức/kỹ năng về bình đẳng giới cho cán bộ các cấp, các ngành, Hội viên, phụ nữ và người dân trong cộng đồng
Đây là hoạt động trọng tâm của công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới, với một số kết quả nổi bật sau:
* Trang bị kiến thức về bình đẳng giới, kỹ năng thực hiện lồng ghép giới cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị
Đây là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc trang bị kiến thức, kỹ năng về bình đẳng giới, lồng ghép giới cho đội ngũ lãnh đạo, quản lý và cán bộ làm công tác hoạch định và thực thi chính sách trong các lĩnh vực. Trung ương Hội đã xây dựng bộ tài liệu tập huấn kiến thức về bình đẳng giới, kỹ năng thực hiện lồng ghép giới cho cán bộ các cấp, nhất là khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi- thông qua triển khai dự án 8 thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia về phát triển vùng đồng bào Dân tộc thiểu số và miền núi. Trong thời gian từ đầu nhiệm kỳ đến hết tháng 6/2024, cấp Trung ương đã trực tiếp tổ chức 03 lớp tập huấn về phát triển năng lực lồng ghép giới trong các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội tại địa phương cho 240 cán bộ Hội LHPN cấp tỉnh và các sở, ngành liên quan; 01 lớp tập huấn xây dựng đội ngũ giảng viên nguồn cấp Trung ương.
Hội LHPN các cấp tại địa phương đã phối hợp với các ngành liên quan tập huấn nâng cao năng lực thực hiện bình đẳng giới cho cán bộ các cấp, với 271 cuộc cho 13.179 cán bộ huyện, xã, 750 cuộc tập huấn cho 41.614 người là các trưởng thôn/bản/ấp/buôn, người có uy tín tại cộng đồng; qua đó giúp trang bị có hệ thống những kiến thức cơ bản về giới, lồng ghép giới cho đội ngũ cán bộ Hội cũng như cán bộ các cấp, các ngành, thiết thực nâng cao năng lực thực hiện công tác bình đẳng giới (Hội LHPN Việt Nam, 2024b).
* Tăng cường truyền thông, trang bị kiến thức, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho Hội viên, phụ nữ
Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác vận động xã hội thực hiện BĐG - với yêu cầu đo lường kết quả cụ thể. Một trong hai tiêu chí để đánh giá công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới của Nghị quyết Đại hội là: Hội LHPN cấp tỉnh triển khai thực hiện hoạt động vận động, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về bình đẳng giới góp phần thực hiện các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030 với yêu cầu, cấp tỉnh tổ chức ít nhất 2 hoạt động/năm và báo cáo từng nội dung hoạt động, có số liệu về số cuộc, số người tham gia. Thực tế, các hình thức tuyên truyền, vận động liên tục đổi mới, đa dạng hóa theo hướng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin. Tuy nhiên, để trang bị kiến thức về BĐG có hiệu quả, hình thức tuyên truyền, phổ biến, trao đổi, thảo luận trực tiếp được sử dụng chủ yếu, như: tổ chức Hội thảo, hội nghị, tập huấn, tọa đàm, nói chuyện chuyên đề; thi tìm hiểu kiến thức, tiêu biểu như: Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Sóc Trăng, Bà Rịa-Vũng Tàu ... Sau nửa nhiệm kỳ triển khai, công tác vận động xã hội thực hiện BĐG của Hội đã tập huấn, trang bị kiến thức về BĐG cho 5.378.594 phụ nữ, tích cực góp phần nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong cộng đồng (tổng hợp số liệu báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ của Hội LHPN các tỉnh/thành đến hết tháng 8/2024).
- Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức, nội dung và các sản phẩm truyền thông, đảm bảo phù hợp với các đối tượng, nhằm phổ biến kiến thức, các thông tin, thông điệp về bình đẳng giới đến đông đảo các nhóm đối tượng khác nhau trong nhân dân, bao gồm cả sản phẩm truyền thông trực tiếp (băng rôn, khẩu hiệu, pano, áp phích, tờ rơi, tờ gấp, sổ tay, túi vải, nón, áo, mũ…) và sản phẩm truyền thông trên nền tảng số (tin, bài, video clips, phóng sự; podcast…). Tính riêng trong Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới năm 2023, các cấp Hội đã đưa ra tổng số 61.405 sản phẩm truyền thông với 640.464 người được tiếp cận, trong đó nam giới chiếm 23,6% và nữ chiếm 76,4% (Hội LHPN Việt Nam, 2024a).
- Tích cực tuyên truyền, vận động thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” góp phần xóa bỏ các định kiến và khuôn mẫu giới trong gia đình và cộng đồng, những tập tục văn hóa có hại và một số vấn đề xã hội cấp thiết cho phụ nữ và trẻ em
Trong khuôn khổ triển khai Dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, Hội LHPN Việt Nam đã ban hành Chiến lược truyền thông về bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em dân tộc thiểu số giai đoạn 2021-2023 và định hướng đến 2030. Trên cơ sở đó, các cấp Hội - nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã đẩy mạnh truyền thông trên các kênh thông tin đại chúng, hệ thống phát thanh, truyền hình, mạng xã hội, trang fanpage; tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương thành lập, duy trì 8.624 tổ truyền thông cộng đồng với sự tham gia của những người có uy tín, có năng lực làm nòng cốt tuyên truyền, vận động cho 368.302 người dân tại cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức về giới, phòng chống bạo lực trên cơ sở giới, tảo hôn và hôn nhân cận huyết; vận động xóa bỏ các định kiến và khuôn mẫu giới, những tập tục lạc hậu có hại cho bình đẳng giới (Hội LHPN Việt Nam, 2024b).
3.3.3. Tạo dấu ấn trong chiến dịch truyền thông thông tổ chức chuỗi hoạt động hưởng ứng Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới
Tuy nội dung và các hình thức tuyên truyền, vận động về BĐG cơ bản cũng tương tự các hoạt động thường xuyên, nhưng chuỗi hoạt động hưởng ứng Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới (Tháng hành động; từ 15/11-15/12) được nhắc đến riêng như là quãng thời gian cao điểm nhất trong năm và cách thức thực hiện thành công điển hình của công tác vận động xã hội thực hiện BĐG, với một số điểm đáng chú ý sau:
- Có sự chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ mang tính đồng bộ, sát sao của cấp Trung ương; việc tổ chức đồng loạt các hoạt động hưởng ứng của các cấp Hội từ trung ương đến địa phương giúp nâng cao hiệu ứng truyền thông trong cộng đồng: Hằng năm, TW Hội ban hành văn bản hướng dẫn (Hướng dẫn số Hướng dẫn số 11/HD-ĐCT ngày 05/10/2022; Hướng dẫn số 23/HD-ĐCT ngày 5/10/2023 và Hướng dẫn số 31/HD-ĐCT ngày 11/10/2024 của Đoàn Chủ tịch TW Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam về tổ chức hoạt động hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới). Các cấp Hội triển khai đồng loạt các hoạt động hưởng ứng, đồng thời trực tiếp thiết kế bộ nhận diện Tháng hành động (như: banner/backdrop, Băng rôn, standee, biển tên, ảnh bìa, khung ảnh đại diện trên mạng xã hội…); xây dựng một số sản phẩm truyền thông (tin, bài, podcast, phóng sự...) để triển khai, sử dụng chung trong hoạt động truyền thông hưởng ứng tháng hành động của các cấp Hội, trong đó, phát huy tốt hiệu quả của các sản phẩm truyền thông qua mạng, thu hút sự quan tâm, tương tác rộng rãi của cộng đồng (thích, chia sẻ, bình luận). Các hoạt động hưởng ứng phong phú được tổ chức đồng loạt ở các cấp Hội, các địa phương tạo dấu ấn tích cực cả về nội dung và hình thức trong công tác vận động xã hội thực hiện BĐG trên phạm vi toàn quốc, có sự lan tỏa mạnh mẽ.
- Có sự tác động tương đối tổng thể đến các đối tượng khác nhau, bao gồm các nhà hoạch định/thực thi chính sách, cán bộ các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, các nhà khoa học, hội viên, phụ nữ, người lao động, học sinh, sinh viên và cộng đồng nói chung – thông qua huy động sự tham gia, ủng hộ của họ vào các hình thức/sự kiện truyền thông sáng tạo. Các hình thức tuyên truyền, vận động nổi bật và ấn tượng của các cấp Hội trong thời điểm này là: tổ chức lễ mít tinh phát động/hưởng ứng Tháng hành động; tổ chức tọa đàm/hội thảo khoa học về công tác phụ nữ, chính sách an sinh xã hội cho phụ nữ, trẻ em gái, về vai trò của phụ nữ trong các lĩnh vực, các lớp tập huấn, hội thi, triển lãm tranh ảnh, sản phẩm truyền thông; hỗ trợ nạn nhân bạo lực;... Qua đó, thu hút sự quan tâm, nâng cao nhận thức và thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới, phòng chống bạo lực trên cơ sở giới của đông đảo cán bộ, người dân trong cộng đồng. Tính riêng trong Tháng hành động năm 2023, các cấp Hội đã tổ chức trên 15.919 sự kiện/hoạt động truyền thông dưới các hình thức với hơn 1,463.685 cán bộ các cấp, các ngành và người dân tham dự, trong đó 83,3% là phụ nữ và 16,7% là nam giới (Hội LHPN Việt Nam, 2024a).
3.3.4. Tham mưu thực hiện công tác cán bộ nữ
Với vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ, trong đó có yêu cầu Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan bồi dưỡng, giới thiệu phụ nữ đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; phụ nữ đủ tiêu chuẩn tham gia quản lý, lãnh đạo các cơ quan trong hệ thống chính trị (khoản 3 Điều 30 Luật Bình đẳng giới 2006), Hội LHPN Việt Nam luôn tích cực tham mưu cho Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ nữ, góp phần thúc đẩy phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý cũng như bình đẳng giới nói chung.
Một trong những yêu cầu đặt ra đối với công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới trong nhiệm kỳ là: các cấp Hội chủ động giới thiệu, tạo nguồn, bồi dưỡng cán bộ nữ, trong đó chú trọng cán bộ nữ trẻ, cán bộ nữ người dân tộc thiểu số; tích cực giới thiệu hội viên, phụ nữ ưu tú kết nạp Đảng. Tiêu chí để đánh giá là Hội LHPN cấp tỉnh, 100% Hội LHPN cấp huyện và 100% Hội LHPN cấp cơ sở tổ chức các hoạt động giới thiệu, tạo nguồn cán bộ nữ. Đến giữa nhiệm kỳ, đã có 31.784 cán bộ nữ bổ nhiệm lần đầu, nữ lần đầu tham gia đại biểu dân cử, cán bộ nữ trẻ được tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng; 56.760 Số cán bộ nữ được bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và kỹ năng lồng ghép giới; Tổng số quần chúng nữ ưu tú được Hội phối hợp giới thiệu kết nạp Đảng là 40.136 (chiếm 57,2%) so với tổng số phụ nữ được giới thiệu là 70.204 và số phụ nữ được kết nạp Đảng là 45.647 người.
Bảng 1: Tình hình Hội LHPN Việt Nam tham gia thực hiện công tác cán bộ nữ giữa nhiệm kỳ 2022-2027 tại một số tỉnh/thành và cả nước
(Đơn vị: người)
(Đơn vị: người)Tỉnh Thành phố | Số cán bộ nữ được bổ nhiệm lần đầu, nữ lần đầu tham gia đại biểu dân cử, cán bộ nữ trẻ được tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng | Số cán bộ nữ được bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và kỹ năng lồng ghép giới | Tổng số quần chúng nữ ưu tú được Hội phối hợp giới thiệu kết nạp Đảng | Số phụ nữ được giới thiệu | Số phụ nữ được kết nạp |
---|---|---|---|---|---|
Hà Nội | 2.300 | 2.043 | 1.726 | 1.186 | 1.726 |
Cao Bằng | 167 | 167 | 1.698 | 725 | 1.698 |
Bắc Kạn | 262 | 478 | 417 | 417 | 269 |
Lào Cai | 160 | 160 | 398 | 1.439 | 675 |
Lai Châu | 643 | 643 | 212 | 212 | 212 |
Sơn La | 322 | 329 | 1.068 | 1.068 | 708 |
Yên Bái | 60 | 39 | 2.747 | 1.879 | 1.578 |
Bắc Giang | 136 | 1.487 | 1.015 | 1.015 | 626 |
Phú Thọ | 295 | 50 | 1.865 | 1.865 | 1.750 |
Vĩnh Phúc | 557 | 1.068 | 2.095 | 2.095 | 1.484 |
Bắc Ninh | 879 | 1.521 | 2.672 | 2.672 | 2.514 |
Gia Lai | 301 | 479 | 2.471 | 2.617 | 1.572 |
Đắk Lắk | 1.059 | 573 | 1.807 | 1.078 | 1.807 |
Lâm Đồng | 498 | 599 | 391 | 391 | 177 |
Tây Ninh | 579 | 599 | 455 | 455 | 114 |
Đồng Nai | 3.512 | 4.569 | 1.550 | 1.242 | 308 |
Long An | 1.619 | 2.387 | 328 | 128 | 128 |
Bến Tre | 1.371 | 911 | 1.106 | 1.106 | 901 |
Vĩnh Long | 599 | 296 | 277 | 1.222 | 1.101 |
Cần Thơ | 451 | 154 | 232 | 232 | 158 |
….. | … | … | … | … | … |
Cả nước | 31.784 | 56.760 | 40.136 | 70.204 | 45.647 |
(Nguồn: Tổng hợp số liệu báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ của Hội LHPN các tỉnh/thành đến hết tháng 8/2024)
Theo số liệu tổng hợp báo cáo giữa nhiệm kỳ, một vài trường hợp số liệu đang có sự chênh lệch với khoảng cách khá lớn giữa các tỉnh/thành, chẳng hạn: Số cán bộ nữ được bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và kỹ năng lồng ghép giới ở một số tỉnh/thành rất nhiều, như: Đồng Nai (4.569 người), Long An (2.387 người)…; nhưng ngược lại, một số tỉnh/thành khác, con số này lại rất thấp, như: Yên Bái (39 người); Cần Thơ (154 người), Lào Cai (160 người)… Các số liệu khác cũng có sự chênh lệch tương tự, đòi hỏi công tác theo dõi, thống kê, báo cáo các số liệu cần chặt chẽ hơn. Đồng thời, cần có sự nghiên cứu sâu những trường hợp làm tốt hoặc chưa tốt điển hình để tìm hiểu nguyên nhân, giải pháp và bài học kinh nghiệm thỏa đáng.
3.4. Điểm mạnh và những vấn đề đặt ra trong công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới
Năm 2023 có nhiều thuận lợi, giúp Hội LHPN Việt Nam đóng góp tích cực cho việc thực hiện các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về BĐG. Công tác BĐG ngày càng nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước cũng như sự quan tâm, ủng hộ của các bộ ngành và xã hội. Vận động xã hội thực hiện BĐG được triển khai trong chương trình công tác trọng tâm của Hội đảm bảo thực chất, đóng góp thiết thực cho việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về BĐG.
Các cấp Hội phát huy thế mạnh trong trong công tác tuyên truyền, vận động thực hiện BĐG, qua đó, ngày càng có tác động sâu sắc, toàn diện đến các cấp, các ngành, các tầng lớp hội viên, phụ nữ và nhân dân nhằm thu hút sự quan tâm; nâng cao nhận thức và tham gia hành động của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong việc tăng cường quyền năng cho phụ nữ và trẻ em gái; tích cực hành động nhằm thúc đẩy BĐG và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới.
Để có những kết quả nói trên, công tác vận động xã hội không thể đặt riêng lẻ, tách rời việc triển khai tổng thể các nhiệm vụ chung của hệ thống Hội, trong đó, có sự đóng góp lớn và trực tiếp của Dự án 8 Thực hiện BĐG và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 do Hội LHPN Việt Nam chủ trì. Dưới tác động và sự lan tỏa của Dự án 8, công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới được quan tâm, đầu tư vượt bậc - kể cả đối với các tỉnh có hoặc không có dự án 8. Nhờ đó, công tác vận động xã hội thực hiện BĐG trong nhiệm kỳ có một số điểm mạnh nổi bật sau:
- Cấp Trung ương: đã có những đổi mới mạnh mẽ, sâu sát trong công tác chỉ đạo; thường xuyên theo dõi nắm bắt tình hình hoạt động của các địa phương; tăng cường sự đồng bộ trong hướng dẫn, chỉ đạo, hỗ trợ, vừa khuyến khích sự chủ động, sáng tạo của các địa phương, tăng tính thực tiễn và hiệu ứng truyền thông trong các cấp Hội.
- Các cấp địa phương: 100% các tỉnh/thành phố có các hoạt động vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới, hầu hết các tỉnh/thành vượt xa so với chỉ tiêu thực hiện nhiệm vụ (có ít nhất 2 hoạt động/năm); các hoạt động không chỉ thực hiện đơn lẻ mà thường đa dạng, với nhiều hình thức khác nhau, tổ chức tại nhiều địa bàn khác nhau, thu hút sự quan tâm, ủng hộ, cam kết hành động của các cấp, các ngành và đông đảo người dân trong cộng đồng.
- Các hoạt động về bình đẳng giới không chỉ mang tính lồng ghép, mà ngày càng được đầu tư kinh phí/nguồn lực và có xu hướng được tổ chức độc lập, thiết thực giải quyết các vấn đề bình đẳng giới của địa phương. Qua đó, thể hiện sự chủ động, đổi mới, sáng tạo rõ rệt và phát huy được nhiều sáng kiến của các cấp Hội trong vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới.
- Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó bạo lực trên cơ sở giới ngày càng được tổ chức chuyên nghiệp và đi vào nề nếp, là thời gian cao điểm nhất trong năm để Hội LHPN các tỉnh/thành phố đồng loạt tổ chức các hoạt động vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới, góp phần tạo nên bản sắc và xây dựng hình ảnh Hội LHPN Việt Nam như là một trong những tổ chức tiên phong hành động vì bình đẳng giới.
- Các hình thức truyền thông, sản phẩm truyền thông của các cấp Hội ngày càng đa dạng, đổi mới và tiếp cận đến nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội - góp phần đưa các kiến thức về giới, bình đẳng giới trở nên gần gũi trong đời sống xã hội; được các cấp, các ngành, các gia đình và cộng đồng quan tâm nhiều hơn.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới của Hội cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm:
- Tình trạng bất bình đẳng giới vẫn tồn tại phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những thành tựu về bình đẳng giới trong thời gian qua chưa bền vững và dễ dàng bị lung lay/suy giảm trước nhiều biến cố khủng hoảng nghiêm trọng, như: thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, cũng như tác động của khoa học - công nghệ trong cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và xu hướng toàn cầu hóa… Nhiều nguy cơ tiềm ẩn làm gia tăng bất bình đẳng giới, đặt ra nhiều thách thức đối với việc thực hiện tốt vai trò nâng cao vị thế của phụ nữ và thúc đẩy BĐG.
- Các hoạt động vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới còn chung chung, thiên về các hoạt động bề nổi, tập trung vào một số nội dung như: tôn vinh phụ nữ và đề cao vai trò của phụ nữ, nhất là trong các dịp ngày lễ (quốc tế phụ nữ 8/3; ngày phụ nữ Việt Nam 20/10, ngày gia đình Việt Nam 28/6); tăng cường chia sẻ việc nhà, phòng chống bạo lực trên cơ sở giới… Những vấn đề khó, có chiều sâu hơn, có tác dụng hướng dẫn, thúc đẩy cộng đồng hành động để giải quyết những vấn đề giới cụ thể, cũng như góp phần thực hiện các mục tiêu BĐG ở các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, lao động - việc làm, chăm sóc sức khỏe… thì chưa được được đề cập đầy đủ, sâu sắc.
- Kiến thức chuyên sâu về giới, bình đẳng giới, phân tích giới, lồng ghép giới… của đội ngũ cán bộ các cấp Hội nhìn chung còn mỏng, còn nhiều khó khăn, hạn chế, chưa bài bản, ảnh hưởng nhất định đến việc thiết kế, xây dựng và triển khai các hoạt động có hàm lượng kiến thức khoa học chuyên sâu về giới.
- Hệ thống dữ liệu thống kê về bình đẳng giới còn thiếu, chưa được phân tách theo giới đầy đủ (cả về nội dung thông tin, cũng như số liệu của các ngành, các cấp/các địa phương) nên hoạt động truyền thông của các cấp Hội còn thiếu những minh chứng, số liệu khoa học.
- Còn thiếu các tài liệu truyền thông, sản phẩm truyền thông có chất lượng, có kiến thức sâu về giới đảm bảo phù hợp với các nhóm đối tượng nên chưa thiết thực hướng dẫn hành động cụ thể cho cộng đồng.
- Tiêu chí đánh giá công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới còn thiên về số lượng, chưa chú trọng về chất lượng, nên khó có đầy đủ căn cứ để đánh giá, đề xuất khen thưởng những địa phương thực hiện tốt nội dung này; chẳng hạn tiêu chí “Hội LHPN cấp tỉnh tổ chức ít nhất 2 hoạt động” vận động, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về bình đẳng giới.
- Cách hiểu về khái niệm/tiêu chí đánh giá hoạt động còn có sự khác nhau, nên việc theo dõi, thống kê, báo cáo số liệu của các tỉnh/thành về nội dung này còn có sự khác biệt, hoặc thay đổi, đôi khi cần thêm thời gian xác minh lại số liệu. Chẳng hạn, trong tiêu chí “số phụ nữ được tập huấn, trang bị kiến thức về bình đẳng giới” thì vẫn có một số tỉnh báo cáo “số lượt phụ nữ”; hoặc mức độ “trang bị kiến thức về bình đẳng giới” chưa được định nghĩa rõ ràng, dẫn đến số liệu thống kê có sự thay đổi khác nhau khi cách tính về các loại hoạt động được coi là trang bị kiến thức về bình đẳng giới cho phụ nữ khác nhau (chẳng hạn: chỉ tính các hoạt động tập huấn hay tính cả hoạt động truyền thông, hay cả hai…).
4. Đề xuất và kiến nghị
Kết quả phân tích trên cho thấy, để nâng cao chất lượng công tác vận động xã hội thực hiện BĐG góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại học đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII, thời gian tới cần quan tâm giải quyết một số vấn đề sau:
- Tăng cường bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về giới, bình đẳng giới, phân tích giới, lồng ghép giới… của đội ngũ cán bộ các cấp Hội nói chung, cán bộ tham mưu công tác bình đẳng giới nói riêng, nhằm tăng cường khả năng nhận diện, phát hiện và giải quyết các vấn đề BĐG của địa phương.
- Tăng cường nghiên cứu, khảo sát làm cơ sở khoa học trong xác định quan niệm, nhu cầu của cộng đồng và các vấn đề giới mang tính đặc thù của địa phương, làm cơ sở định hướng và xây dựng nội dung truyền thông phù hợp, thiết thực góp phần giải quyết các vấn đề giới cụ thể theo vùng/miền, địa phương.
- Cấp Trung ương tăng cường phối hợp với các chuyên gia, nhà khoa học trong xây dựng và phổ biến các tài liệu truyền thông có chất lượng, có kiến thức chuyên sâu về giới hỗ trợ cho địa phương, đảm bảo các tài liệu/sản phẩm truyền thông không chỉ thiên về truyền tải thông điệp/khẩu hiệu chung chung, mà còn thiết thực hướng dẫn cộng đồng trong hành động giải quyết các nhiệm vụ, các vấn đề BĐG của vùng, miền/địa phương.
- Hệ thống dữ liệu thống kê về bình đẳng giới còn thiếu, chưa được phân tách theo giới đầy đủ (cả về nội dung thông tin, cũng như số liệu của các ngành, các cấp/các địa phương).
- Quan tâm bổ sung hướng dẫn cụ thể để thống nhất cách hiểu, cách thu thập thông tin, báo cáo, số liệu về công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới, nhất là tiêu chí “số phụ nữ được tập huấn, trang bị kiến thức về bình đẳng giới”, cần xác định rõ ràng, cụ thể hơn những hoạt động được coi là “trang bị kiến thức về bình đẳng giới” cho phụ nữ. Hướng dẫn cụ thể hơn về chất lượng thực hiện các tiêu chí, để có căn cứ rõ ràng trong đánh giá, đề xuất khen thưởng những địa phương thực hiện tốt nội dung này.
- Nghiên cứu, bổ sung quy định xây dựng cơ sở dữ liệu về giới, bình đẳng giới: đảm bảo bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của các địa phương và quốc gia được thu thập đầy đủ thông tin, hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về giới, bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và được phân tách theo giới ngay từ cấp cơ sở- giúp cung cấp minh chứng, số liệu khoa học rõ ràng phục vụ công tác tuyên truyền, vận động và đề xuất chính sách về bình đẳng giới.
- Tiếp tục quan tâm đầu tư kinh phí hoạt động về bình đẳng giới, nhất là đối với những địa phương không thuộc địa bàn Dự án 8 để đảm báo không có quá nhiều chênh lệch hoạt động giữa các địa phương, đồng thời ngày càng có nhiều hoạt động về bình đẳng giới được tổ chức và tập trung giải quyết những vấn đề giới cụ thể.
- Điều kiện để công tác vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới có hiệu quả là cần được gắn bó chặt chẽ và thực hiện đồng bộ, đồng thời với các nhiệm vụ khác của hệ thống Hội, như: tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và tham gia quản lý Nhà nước về BĐG; Tham gia giám sát việc thực thi pháp luật và thực hiện phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật về BĐG; Tổ chức các hoạt động hỗ trợ phụ nữ góp phần thực hiện mục tiêu BĐG; Tham mưu thực hiện công tác cán bộ nữ; Thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em gái... Đồng thời, gắn liền với việc thực hiện tốt các Chương trình, dự án, đề án trong các cấp Hội nói chung./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Chấp hành Hội LHPN Việt Nam. (2023). Báo cáo số 297/BC-BCH ngày 28/12/2023 về Kết quả công tác Hội năm 2023.
Ban Dân tộc - Tôn giáo, TW Hội LHPN Việt Nam (2023). Vấn đề giới trong tiếp cận, thụ hưởng chính sách và giải pháp tăng cường tiếp cận, thụ hưởng chính sách của phụ nữ dân tộc thiểu số. Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Phát huy vai trò của phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới”. Nxb Lao động, tháng 12/2023.
Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương. (1999). Sổ tay báo cáo viên 1999 - 2000.
Bùi Thị Hòa, Đào Thị Vi Phương và cộng sự. (2022). Cơ cở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp bảo vệ và hỗ trợ một số nhóm phụ nữ đặc thù. Báo cáo tổng kết nhiệm vụ khoa học độc lập cấp quốc gia.
Hội LHPN Việt Nam. (2016a). Lịch sử Hội LHPN VIệt Nam, tập 1 (1930 - 1976). Nxb Phụ nữ.
Hội LHPN Việt Nam. (2016b). Biên niên Lịch sử Hội LHPN Việt Nam, tập 1 (1930 - 176). Nxb Phụ nữ.
Hội LHPN Việt Nam. (2022). Báo cáo số 84/BC-ĐCT ngày 5/10/2022 về Đánh giá 15 năm thi hành Luật Bình đẳng giới.
Hội LHPN Việt Nam. (2024a). Báo cáo số 332a/BC-ĐCT ngày 1/3/2024 về Kết quả thực hiện các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới năm 2023.
Hội LHPN Việt Nam. (2024b). Báo cáo kết quả triển khai dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” 6 tháng đầu năm 2024.
Hội LHPN Việt Nam. (2024c). Tổng hợp số liệu báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ của Hội LHPN các tỉnh/thành đến hết tháng 8/2024. Nguồn: bctk.hoilhpn.org.vn.