Nhiệm vụ 2 “Tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện luật pháp và chính sách về bình đẳng giới"

01/02/2008
I. CĂN CỨ XÂY DỰNG NHIỆM VỤ

I. CĂN CỨ XÂY DỰNG NHIỆM VỤ


1. Căn cứ pháp lý
[1]

Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ, là một thành tố trong hệ thống chính trị của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nòng cốt trong vai trò chủ thể của phụ nữ, chủ động tham mưu, đề xuất với Ðảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách liên quan đến phụ nữ, thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội[2], được Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật xác định có quyền và trách nhiệm[3] sau:

- Có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội

- Được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ, các kỳ họp HĐND và được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan

- Đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ luật, nghị quyết của Quốc hội trái Hiến pháp; xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội

- Soạn thảo, ký ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên tịch

- Tham gia đóng góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ

- Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước; giám sát việc thực hiện pháp luật về BĐG và sự phát triển của phụ nữ

- Thực hiện phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật về BĐG

- Tham gia các tổ chức tư vấn (Hội đồng, Uỷ ban, Ban chỉ đạo, Ban quản lý...) cho cơ quan hành chính nhà nước các cấp về các vấn đề liên quan đến phụ nữ và trẻ em (nhất là trẻ em gái)

- Tham gia các đoàn kiểm tra của cơ quan hành chính nhà nước các cấp về các vấn đề liên quan đến phụ nữ và trẻ em

 

Điều lệ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được sửa đổi, bổ sung tại Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ X (10/2007) đã xác định Hội có chức năng “Đại diện, bảo vệ quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý nhà nước” (Khoản 1, Điều 1) với nhiệm vụ cụ thể là “Tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ; tham mưu đề xuất chính sách với Đảng, Nhà nước về công tác phụ nữ nhằm tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện bình đẳng và phát triển” (Khoản 2 Điều 2)


2. Cơ sở thực tế

2.1 Điểm mạnh

Trong các khoá trước, đặc biệt là khoá IX (nhiệm kỳ 2002 - 2007), Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã thực hiện khá tốt chương trình trọng tâm “Tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng nam nữ”, trong đó tập trung chính vào các hoạt động:

- Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật về bình đẳng giới trong chính trị, kinh tế, giáo dục - đào tạo, tư pháp, hôn nhân và gia đình, chăm sóc sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hoá gia đình, phòng chống các tệ nạn xã hội.

- Tổ chức lấy ý kiến đóng góp vào dự thảo văn bản văn kiện Đảng, tham gia xây dựng Nghị quyết của Đảng phản ánh nguyện vọng của phụ nữ

- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

- Phối hợp cùng các ban, ngành kiểm tra, giám sát việc thực hiện Bộ Luật lao động, Luật Hôn nhân gia đình, các chính sách xã hội, chính sách đối với các gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với nước, chính sách bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội…trên cơ sở đó kiến nghị các cấp Chính quyền và các cơ quan hữu quan giải quyết tốt các quyền lợi trực tiếp cho phụ nữ và trẻ em.

- Giải quyết đơn thư, tư vấn pháp luật

- Nghiên cứu khoa học

- Phối hợp với Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ bồi dưỡng cho nữ ứng cử viên đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; vận động phụ nữ đi bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004 - 2009 và đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ 2007 - 2011.

Điểm nổi bật trong nhiệm kỳ 2002 - 2007 là:

- Hội đã góp phần tích cực vào kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII (trong đó 27 tỉnh, thành phố có trên 30% nữ, đặc biệt là các tỉnh Trà Vinh 50%, Hà Nội 42%, An Giang 40%, Bình Định 37%)

- Tích cực, chủ động tham mưu với Đảng và Nhà nước ban hành Nghị quyết số 11/NQ-TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”

- Chủ động đề xuất và phát huy tốt vai trò cơ quan chủ trì soạn thảo Luật Bình đẳng giới (được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực pháp luật từ 1/7/2007), Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới (được Thủ tướng ký ban hành ngày 3/5/2007).

- Can thiệp, bảo vệ quyền lợi tốt cho một số phụ nữ

Những kết quả nổi bật này đã đánh dấu bước trưởng thành của tổ chức Hội trong việc thực hiện vai trò, chức năng đại diện, bảo vệ quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý nhà nước


2.2 Điểm hạn chế

Mặc dù được đánh giá là có tiến bộ về nhiều mặt, vẫn còn nhiều bất cập:

- Hoạt động tham gia xây dựng pháp luật: (1) Chủ yếu ở cấp trung ương nhưng kết quả tham gia còn hạn chế; (2) chưa có được nhiều ý kiến liên quan đến vấn đề giới, chủ yếu là những vấn đề chung, dàn trải; thiếu tính chủ động; (3) Các cấp Hội chưa thực sự nhận thức đầy đủ được tầm quan trọng của hoạt động này nên chưa quan tâm đúng mức.

Nguyên nhân khách quan: (1) Phạm vi các vấn đề lấy ý kiến xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật trải dài trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và các ngành, trong khi thời gian lấy ý kiến theo quy định chung là 7 ngày tính cả ngày nghỉ, ngày lễ ; (2) Các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hầu hết chỉ được lấy ý kiến khi đã đến các dự thảo cuối nên việc nghiên cứu ý kiến tham gia của Hội cũng hạn chế, theo đó ý kiến liên quan đến việc đề nghị điều chỉnh các quy định theo hướng bảo đảm bình đẳng giới hầu như ít được xem xét một cách thấu đáo với khoảng thời gian vật chất quá ngắn.

Nguyên nhân chủ quan: năng lực cán bộ Hội còn hạn chế, bị chi phối bởi nhiều công việc khác nhau...

- Công tác giám sát: (1) Hội chưa thực hiện được giám sát để phát hiện vấn đề; (2) Đại diện của Hội tham gia trong các đoàn giám sát của cơ quan, tổ chức khác chưa phát huy được khả năng, thụ động nghe là chính; (3) Lúng túng trong việc xử lý một số kết quả giám sát được, kiến nghị chưa đáp ứng được yêu cầu

Nguyên nhân: (1) Mặc dù đã có các quy định của pháp luật về việc tạo điều kiện để các cấp Hội tham gia các đoàn kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới, nhưng trên thực tế tại một số địa phương, khi tổ chức các đoàn kiểm tra, giám sát các cơ quan nhà nước chưa thực sự quan tâm đến việc mời đại diện của Hội phụ nữ tham gia theo tinh thần Nghị định số 19/2003/NĐ-CP; (2) Hội chưa chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ; (3) bản thân cán bộ Hội chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác này và quan tâm học hỏi những vấn đề có liên quan.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật: (1) Chưa tiến hành thường xuyên và đồng đều; (2) Năng lực tuyên truyền viên, báo cáo viên hạn chế; (3) Chưa quan tâm thường xuyên đến đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật thông tin; (4) Tài liệu chưa nhiều, phong phú, đa dạng, phù hợp.

- Tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý: (1) Thiếu chủ động; (2) Chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của phụ nữ

- Giải quyết đơn thư: (1) Nghiên cứu, xử lý đơn thư còn chậm; (2) Chủ yếu chuyển đơn theo mẫu, chưa đưa ra được những vấn đề liên quan đến phụ nữ khi kiến nghị; (3) Theo dõi phản hồi kết quả giải quyết chưa nề nếp; (4) Tổng hợp, báo cáo, phân loại đơn còn hạn chế

- Công tác nghiên cứu:(1) Thiếu tính chiến lược ; (2) Tính ứng dụng chưa cao: chưa có kết nối hiệu quả giữa nghiên cứu và đề xuất, xây dựng chính sách, pháp luật; (3) Các cấp Hội chưa coi trọng, coi đó là việc của TW; (4) Ở TW, nghiên cứu cũng chỉ được xem là việc riêng của Trung tâm nghiên cứu phụ nữ

- Công tác cán bộ nữ chưa có được cách làm hiệu quả để góp phần vào việc tạo nguồn, giới thiệu quy hoạch và đề cử phụ nữ tham gia các cơ quan lãnh đạo nhà nước các cấp

- Năng lực của cán bộ Hội các cấp hạn chế về kiến thức và kỹ năng phát hiện, đề xuất vấn đề, giám sát, thương thuyết, kiến nghị và phản biện xã hội. Do vậy, trong một số trường hợp, mặc dù tự phát hiện được hoặc được cung cấp thông tin về việc vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật đối với phụ nữ, nhưng nhiều câp Hội lúng túng không biết làm thế nào để giúp phụ nữ hoặc không mạnh dạn và đủ tự tin để đứng ra bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ…

Những điểm yếu trên đã làm cho hiệu quả thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý nhà nước của Hội không cao.

 

II. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA NHIỆM VỤ

1. Thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ chiến lược của Hội quy định tại Điều 1 và 2 Điều lệ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.

2. Thực hiện quy định của Nhà nước về quyền, trách nhiệm của Hội tham gia quản lý xã hội, quản lý nhà nước theo tinh thần Nghị định số 19/2003/NĐ-CP ngày 7/3/2003 của Chính phủ.

3. Hỗ trợ phụ nữ hiểu biết pháp luật để tự bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng, góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.

4. Phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những khó khăn, hạn chế trong nhiệm kỳ IX. Góp phần làm cho Hội thực sự trở thành tổ chức của phụ nữ, tiếp tục nâng cao vị thế của Hội trong hệ thống chính trị của nhà nước ta.

 

III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NHIỆM VỤ

1. Tham gia xây dựng luật pháp, chính sách

- Chủ động tham mưu đề xuất với Đảng và Nhà nước những vấn đề liên quan đến công tác phụ nữ và các chính sách đặc thù nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đặc biệt quan tâm các đối tượng: phụ nữ nông thôn không còn đất canh tác, phụ nữ nghèo, phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ cao tuổi, phụ nữ tàn tật, phụ nữ đơn thân có hoàn cảnh khó khăn, lao động nữ dôi dư khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, lao động nữ làm việc tại các khu công nghiệp tập trung

- Nghiên cứu, đề xuất, tham gia xây dựng hệ thống chính sách về gia đình thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo tiêu chí “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Chú trọng các chính sách về dân số - kế hoạch hoá gia đình; chăm sóc bảo vệ bà mẹ - trẻ em; chế độ thai sản đối với phụ nữ nghèo không có bảo hiểm xã hội; chăm sóc, giáo dục trẻ em; phát triển hệ thống phúc lợi, dịch vụ gia đình, nhà trẻ - mẫu giáo; cải thiện môi trường sống. Nghiên cứu, đề xuất xây dựng luật về tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ VN.

- Phối hợp với các ngành chức năng rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung luật pháp, chính sách liên quan tới phụ nữ; chủ động đóng góp ý kiến vào dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng các cấp, các Nghị quyết của Đảng, tham gia vào quá trình xây dựng chiến lược, chương trình, dự án phát triển trên các lĩnh vực của quốc gia, ngành, địa phương nhằm bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của phụ nữ và bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới.

- Chủ động tham mưu tạo nguồn cán bộ nữ và giới thiệu quần chúng phụ nữ ưu tú cho Đảng. Đề xuất các giải pháp cần thiết nhằm thực hiện mục tiêu phát triển đội ngũ cán bộ nữ theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị. Đề xuất chính sách đặc thù đối với cán bộ nữ công tác ở vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải đảo, dân tộc thiểu số, cán bộ nữ có con nhỏ đi học.

- Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học của từng cấp Hội để có cơ sở khoa học đề xuất, tham gia xây dựng luật pháp, chính sách và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.


2. Tăng cường công tác tư vấn, giám sát và thực hiện phản biện xã hội

- Củng cố, phát triển mạng lưới tư vấn pháp luật và giải quyết đơn thư của các cấp Hội. Phối hợp với ngành tư pháp tổ chức hoạt động tư vấn pháp luật cho phụ nữ phù hợp với nhu cầu và điều kiện của từng cấp Hội

- Các cấp Hội xây dựng và thực hiện kế hoạch giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, tập trung Luật Bình đẳng giới. Kịp thời phát hiện và có các biện pháp tích cực bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ khi bị vi phạm. Đề xuất và thực hiện các giải pháp cần thiết nhằm đẩy mạnh công tác phòng chống tệ nạn xã hội, tội phạm liên quan tới phụ nữ, đặc biệt là tội phạm xâm hại tình dục và buôn bán phụ nữ, trẻ em.

- Nghiên cứu, vận dụng thực hiện nhiệm vụ phản biện xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X bảo đảm thiết thực, hiệu quả, phù hợp với chức năng của Hội

- Chăm lo bồi dưỡng, trang bị kiến thức pháp luật và kỹ năng tư vấn, giám sát, phản biện xã hội cho cán bộ Hội các cấp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ

 

IV. YÊU CẦU TRIỂN KHAI NHIỆM VỤ

1. Xác định rõ trách nhiệm và tính chủ động của các cấp Hội

2. Xác định rõ ràng các hoạt động trọng tâm, các biện pháp, phương thức và nguồn lực thực hiện bảo đảm tính logic, khoa học, thực tế.

3. Dự kiến một số chỉ tiêu, kết quả chính

4. Xác định rõ trách nhiệm của từng cấp Hội đối với mỗi hoạt động

5. Xác định rõ mối quan hệ giữa tham gia xây dựng, phản biện xã hội, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách với công tác nghiên cứu khoa học

6. Xác định rõ biện pháp nâng cao vai trò của Hội trong công tác cán bộ nữ.

 

V. GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN NHIỆM VỤ

 

A. GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP


1. Tham gia xây dựng luật pháp, chính sách

1.1 Chỉ tiêu/dự kiến kết quả chính:

a. Tham gia xây dựng, sửa đổi, bổ sung luật pháp, chính sách: (1) Đáp ứng với yêu cầu tiến độ soạn thảo các văn bản; (2) Đánh giá được mức độ/yêu cầu lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong các dự thảo văn bản xin ý kiến; (3) Đưa ra được những ý kiến góp ý bảo đảm có chất lượng từ góc độ giới, giúp Ban soạn thảo có cơ sở xem xét hợp lý vấn đề giới và bình đẳng giới

b. Đề xuất xây dựng, sửa đổi, bổ sung luật pháp, chính sách: có các văn bản đề xuất đạt mục tiêu, đòi hỏi của thực tế


1.2 Các hoạt động trọng tâm và thời gian:
(1) Tham gia xây dựng Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới và Luật phòng, chống bạo lực gia đình (2008); (2) Tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật (2008 - 2012); (3) Đề xuất ban hành một số biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và một số chính sách dành cho người mẹ (2008 - 2012); (4) Đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình (2010)


1.3 Các biện pháp chính:
cử đại diện, phân tích, nghiên cứu, trưng cầu ý kiến các đối tượng, góp ý và tư vấn, hỗ trợ nghiệp vụ


1.4 Mục đích của việc tham gia và đề xuất

Bảo đảm quyền bình đẳng, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới thông qua việc phân tích, hỗ trợ các Ban Soạn thảo văn bản hiểu rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa phụ nữ và nam giới cần phải được quan tâm xem xét thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật dự kiến ban hành, sửa đổi hoặc bổ sung.


1.5 Các loại văn bản tham gia ý kiến

a. Các loại văn bản: (1) Các báo cáo, văn kiện Đại hội Đảng; (2) Các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng; (3) Các văn bản pháp luật của Nhà nước: Hiến pháp, Bộ luật, Luật của Quốc hội; Pháp lệnh củaUỷ ban Thường vụ Quốc hội; Nghị định của Chính phủ; Quyết định, Chỉ thị củaThủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng/thủ trưởng cơ quan ngang Bộ); Thông tư (Bộ trưởng/thủ trưởng cơ quan ngang Bộ); (4) Văn bản pháp luật của địa phương: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân


b. Trách nhiệm tham gia theo từng cấp

- Cấp TW: (1) dự thảo báo cáo, văn kiện Đại hội Đảng, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng; (2) dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan TW của tổ chức chính trị - xã hội soạn thảo và ban hành; (3) dự thảo các Chiến lược, Chương trình mục tiêu quốc gia. Ví dụ: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Chiến lược tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, Luật bảo hiểm y tế, Luật Công vụ….

- Cấp tỉnh: (1) dự thảo báo cáo, văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh, các văn bản khác của Thường vụ tỉnh uỷ; (2) dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Ví dụ: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân về nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương giai đoạn 2008 - 2011, quyết định của Uỷ ban nhân dân về…

- Cấp huyện: (1) dự thảo báo cáo, văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện, các văn bản khác của Thường vụ huyện uỷ; (2) các dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Quyết định, Chỉ thị của UBND cấp huyện (ví dụ tương tự cấp tỉnh)

- Cấp xã: (1) dự thảo báo cáo, văn kiện Đại hội Đảng bộ xã; (2) các dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã (ví dụ tương tự cấp tỉnh, huyện)


1.6 Những vấn đề tập trung tham gia, đề xuất:
(1) Những vấn đề liên quan đến quyền lợi của phụ nữ; biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới; chính sách hỗ trợ người mẹ; biện pháp bảo đảm bình đẳng giới; (2) Những vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền, trách nhiệm của tổ chức Hội


1.7 Những công việc cần làm:
(1) Bố trí bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách; (2) Nâng cao năng lực cho cán bộ; (3) Xây dựng đội ngũ cộng tác viên; (4) Nghiên cứu, tổng hợp các dữ liệu, thông tin liên quan đến các lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh; (5) Phân tích, đối chiếu, so sánh quy định dự thảo với quy định hiện hành; (6) Tổ chức lấy ý kiến các nhóm đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản pháp luật hoặc là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (tuỳ điều kiện thời gian xin ý kiến và phương thức thực hiện); (7) Khảo sát, nghiên cứu tác động dự kiến của một số quy định trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đối với Hội, hội viên, phụ nữ và mục tiêu bình đẳng giới (tuỳ điều kiện thời gian và nguồn lực); (8) Tổng hợp ý kiến, viết văn bản góp ý/đề xuất


1.8 Phương pháp tham gia, đề xuất:
(1) Cử đại diện tham gia các ban soạn thảo; (2) Phát biểu tại các diễn đàn Quốc hội, HĐND, Chính phủ, Uỷ ban nhân dân, bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội; (3) Tham gia các hội nghị, hội thảo bàn về các văn bản quy phạm pháp luật; (4) Đóng góp, đề xuất ý kiến bằng văn bản; (5) Nghiên cứu, thu thập thông tin lựa chọn những vấn đề liên quan đến phụ nữ và Hội


1.9 Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia, đề xuất

- Đoàn Chủ tịch, Ban Thường vụ (bằng văn bản)

- Đại diện của Hội là: (1) Uỷ viên TW Đảng, Thường vụ các cấp uỷ Đảng; (2) Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; (3) Thành viên tham gia các Hội đồng, các Ban chỉ đạo theo tinh thần Nghị định 19/2003/NĐ-CP ngày 7/3/2003 và các Hội đồng, các Ban chỉ đạo khác.

- Đại diện của Hội được cử tham gia Ban soạn thảo và Tổ biên tập các văn bản quy phạm pháp luật (những vấn đề lớn liên quan đến quan điểm cần báo cáo lãnh đạo trước khi tham gia ý kiến).

- Đại diện của Hội tham gia các hội thảo chuyên đề với tư cách là chuyên gia hoặc đại biểu mời


1.10 Trình tự tham gia

a. Đối với văn bản không lấy ý kiến rộng rãi (do tính chất văn bản không cần thiết/chỉ giới hạn đối tượng cho ý kiến, do thời gian gấp…)

- Bước 1. người được giao nhiệm vụ tự nghiên cứu dự thảo, đối chiếu, so sánh với quy định hiện hành và đòi hỏi cụ thể của thực tế để đưa ra các ý kiến dự kiến tham mưu cho Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch, Ban Thường vụ

- Bước 2. tổng hợp ý kiến (nếu được giao cho nhiều người tham mưu)

- Bước 3. trình dự thảo văn bản tham gia ý kiến cho lãnh đạo Hội trực tiếp phụ trách ban, đơn vị (kèm cả dự thảo văn bản xin ý kiến, bản tổng hợp ý kiến hoặc bản góp ý của những người được lấy ý kiến)

- Bước 4. điều chỉnh văn bản trên cơ sở ý kiến của lãnh đạo Hội

- Bước 5. trình lãnh đạo Hội phê duyệt và ký văn bản tham gia ý kiến

- Bước 6. gửi văn bản góp ý cho cơ quan xin ý kiến và những cơ quan có liên quan đến việc thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đó

b. Đối với văn bản lấy ý kiến rộng rãi

Ngoài 6 bước như trường hợp đề cập tại mục a, thực hiện thêm 2 bước:

- Bước 1a: tham mưu cho lãnh đạo Hội về kế hoạch lấy ý kiến (xác định rõ đối tượng, thời gian, phương thức)

- Bước 1b. soạn văn bản đề nghị các đối tượng góp ý kiến bằng văn bản: (1) Ban, đơn vị TW Hội và tỉnh, thành Hội, đơn vị trực thuộc (đối với văn bản thuộc trách nhiệm tham gia của cấp TW); (2) Ban Chấp hành, Ban Thường vụ cấp huyện, xã (đối với văn bản thuộc trách nhiệm tham gia của cấp tỉnh); (3) Ban Chấp hành, Ban Thường vụ cấp xã (đối với văn bản thuộc trách nhiệm tham gia của cấp huyện); (4) Chi, tổ phụ nữ (đối với văn bản thuộc trách nhiệm tham gia của cấp xã); (5) Chuyên gia, cộng tác viên (tuỳ từng cấp Hội)


1.11 Trình tự đề xuất

- Bước 1. Nghiên cứu các vấn đề có liên quan

- Bước 2. Viết dự thảo văn bản, thảo luận, tiếp thụ ý kiến

- Bước 3. Hoàn thiện văn bản, trình xin Lãnh đạo Hội phê duyệt và ký

- Bước 4 Gửi văn bản đề xuất cho cơ quan có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan


1.12 Hình thức và mẫu văn bản tham gia và đề xuất

a. Hình thức văn bản: thông thường được thể hiện dưới 3 dạng: (1) Công văn phúc đáp (trường trường hợp xin ý kiến góp ý bằng văn bản); (2) Công văn đề nghị (trong trường hợp Hội chủ động góp ý, đề xuất); (3) Báo cáo tham luận, báo cáo phân tích, đánh giá (trong trường hợp được đề nghị viết báo cáo phân tích giới trong văn bản quy phạm pháp luật)

b. Mẫu văn bản (xem phần phụ lục 2,3, 4)


2. Phản biện xã hội đối với luật pháp, chính sách về bình đẳng giới

Phản biện xã hội đối với luật pháp, chính sách về bình đẳng giới là việc Hội đưa ra những nhận xét, phân tích lý lẽ có căn cứ khoa học và thực tế làm rõ bản chất nhìn từ góc độ giới của một vấn đề, một sự kiện liên quan trực tiếp đến việc quyết định chủ trương, chính sách của Đảng và xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm bình đẳng giới.


2.1 Các hoạt động trọng tâm và thời gian:
(1) Triển khai thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư (từ khi có Chỉ thị); (2) Xây dựng, củng cố cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin khoa học về lý luận và thực tế (2008 - 2012); (3) Tổ chức phản biện và giám sát việc tiếp thụ (2008 - 2012)


2.2 Chỉ tiêu/dự kiến kết quả chính:
(1) 100% cấp Hội quán triệt và tổ chức thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư về giám sát và phản biện xã hội; (2) Xây dựng được mạng lưới cộng tác viên giới, pháp luật, quản lý nhà nước và nghiên cứu chính sách, pháp luật cấp TW và tỉnh; (3) Cấp TW và tỉnh tổ chức được diễn đàn đối thoại giữa phụ nữ với Đảng, Nhà nước về chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; (4) TW thí điểm phản biện có hệ thống từ 1 - 2 văn bản quy phạm pháp luật và được giám sát việc tiếp thụ ý kiến phản biện


2.3 Các biện pháp chính:
chỉ đạo, đào tạo, bồi dưỡng, thu thập, cung cấp thông tin, tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật


2.4 Nguyên tắc của phản biện xã hội:
(1) Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; (2) Chấp hành Hiến pháp, pháp luật, cam kết quốc tế, đạo đức xã hội; (3) Phát huy sự tham gia của phụ nữ; (4) Bảo đảm tính nhân dân, trung thực, khoa học, khách quan; (5) Bảo đảm nguyên tắc và chính sách cơ bản về bình đẳng giới; (6) Phản được tiếp thu và phản hồi kết quả.


2.5 Phạm vi phản biện xã hội:
(1) Chủ trương, chính sách của TW Đảng và các chủ trương của các cấp uỷ Đảng ở địa phương; (2) Văn bản quy phạm pháp luật: Hiến pháp, Bộ luật, Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị; (3) Chương trình, chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng…liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của phụ nữ, quyền và trách nhiệm của Hội; (4) Các chính sách cụ thể đối với phụ nữ các dân tộc, tôn giáo


2.6 Cách thức phản biện xã hội:
tương tự như tham gia, đề xuất xây dựng luật pháp, chính sách nhưng ở mức độ cao.


2.7 Yêu cầu của phản biện xã hội:
(1) Có chương trình, kế hoạch xác định trọng tâm, trọng điểm, coi trọng chất lượng, hiệu quả thiết thực, tránh hình thức; (2) Tạo nên các diễn đàn đối thoại trực tiếp và gián tiếp để phụ nữ, nam giới và toàn xã hội tham gia vào quá trình xây dựng và thực hiện các chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; (3) Sử dụng các kết quả giám sát, các kết quả nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới để phản biện xã hội đối với các chính sách, pháp luật về bình đẳng giới.


2.8 Những công việc cần làm để thực hiện phản biện xã hội:
(1) Cử người có chất lượng tham gia (có kiến thức pháp luật, kiến thức giới, bình đẳng giới, có kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng thương thuyết, trình bày…); (2) Tổ chức tốt công tác nghiên cứu để có cơ sở khoa học về lý luận, thực tế; (3) Củng cố, nâng cấp hệ thống thu thập thông tin các cấp; tăng cường năng lực phân tích thông tin, dữ liệu; (4) Xây dựng đội ngũ cộng tác viên, chuyên gia giỏi, giám phản biện, biết phản biện và có kỹ năng nghiên cứu giỏi để nghiên cứu và tiếp cận dư luận quần chúng và của phụ nữ hoặc nam giới nói riêng để đưa ra đề xuất có hiệu quả


3. Giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách

Giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới là việc các cấp Hội theo dõi quá trình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân nhằm xem xét cách thức, mức độ và hiệu quả của việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong thực tế. Trên cơ sở đó phát hiện kịp thời những vấn đề vướng mắc, bất cập để tham gia, đề xuất xây dựng chính sách, pháp luật và phản biện xã hội.


3.1 Các hoạt động trọng tâm và thời gian:
(1) Xây dựng mô hình điểm về hệ thống giám sát của Hội (2008); (2) Giám sát việc thực hiện Nghị quyết 11, Luật Bình đẳng giớivà các văn bản quy phạm pháp luật khác (2008 - 2012); (3) Giám sát, đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 (2010); (4) Phối hợp Bộ Nội vụ tham mưu cho Chính phủ đánh giá 5 năm thực hiện Nghị định 19/2003/NĐ - CP (2008)


3.2 Chỉ tiêu/dự kiến kết quả chính:
(1) Có mô hình điểm hệ thống GS của Hội cuối năm 2008, từ 2009 phổ biến tới các tỉnh, thành, đơn vị trực thuộc; (2) Có bộ chỉ số giám sát thực hiện Nghị quyết 11, Luật Bình đẳng giới và các văn bản khác; (3) 100% tỉnh, thành Hội, đơn vị trực thuộc thực hiện giám sát; (4) Có báo cáo đánh giá việc thực hiện Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ đến năm 2010 cấp TW và tỉnh; (4) 100% tỉnh, thành Hội có báo cáo 5 năm thực hiện Nghị định 19/2003/NĐ-CP và tổ chức hội nghị cấp TW


3.3 Các biện pháp chính:
chỉ đạo, biên soạn tài liệu, bồi dưỡng, xây dựng chỉ số, hướng dẫn nghiệp vụ


3.4 Phạm vi giám sát:
xem xét từ góc độ giới việc thực hiện chủ trương, Nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước


3.5 Hình thức và phương thức giám sát:
(1) Hình thức: nghe báo cáo; làm việc với lãnh đạo địa phương; gặp gỡ những người thụ hưởng; quan sát; (2) Phương thức: chủ động, phối hợp


3.6 Công việc cần làm:
bố trí tổ chức (ban, đơn vị chịu trách nhiệm chính (chủ trì) ở TW và tỉnh); con người (chuyên trách, có hiểu biết, kỹ năng về pháp luật, giám sát, thương thuyết, phân tích, tổng hợp vấn đề); tài chính (phân bổ ngân sách hàng năm và kế hoạch vận động tài chính hỗ trợ từ các nguồn khác); cơ chế phối hợp dọc - ngang (dọc trong hệ thống Hội, ngang với các ngành cùng cấp (để phối hợp giám sát, xử lý kết quả giám sát và kiến nghị); xây dựng chỉ tiêu (mô tả số lượng kết quả mong đợi cuối cùng), chỉ số giám sát (xây dựng được các biến số giúp đo lường (trực tiếp hoặc gián tiếp) mức độ đạt được của các chỉ tiêu tại thời điểm nhất định, nó là cơ sở cho việc giám sát và đánh giá).


4. Tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý và giải quyết đơn thư


4.1 Các hoạt động trọng tâm và thời gian:
(1) Khảo sát, đánh giá thực trạng mạng lưới tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, công tác giải quyết đơn thư của Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp (2009); (2) Mở rộng và thành lập mới các trung tâm, tổ/nhóm tư vấn pháp luật tại địa phương (2010 - 2012); (3) Tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, giải quyết đơn thư (2008 - 2012)


4.2 Chỉ tiêu/dự kiến kết quả chính:
(1) Đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp giải quyết khó khăn, vướng mắc; (2) 80 - 90% tỉnh/thành Hội có hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý


4.3 Các biện pháp chính:
đánh giá thực trạng, hướng dẫn, tư vấn, hỗ trợ kỹ năng nghiệp vụ.


4.4 Tư vấn pháp luật

- Là việc các cấp Hội cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí đối với thành viên của tổ chức thành lập ra Trung tâm tư vấn pháp luật và người thuộc diện trợ giúp pháp lý hoặc có thu phí đối với mọi nhóm phụ nữ và đối tượng khác

- Phạm vi tư vấn: (1) Hướng dẫn, giải đáp pháp luật; (2) Tư vấn soạn thảo đơn, di chúc và các giấy tờ khác; (3) Tư vấn soạn thảo hợp đồng có giá trị từ 100 triệu đồng trở xuống; (4) Cung cấp văn bản pháp luật, thông tin pháp luật.

- Địa điểm tư vấn: Trung tâm tư vấn pháp luật, phòng tiếp dân của Hội, nơi ở của phụ nữ.


4.5 Trợ giúp pháp lý:
Là việc các cấp Hội chủ động hoặc phối hợp cung cấp dịch vụ pháp lý cho phụ nữ miễn phí nhằm giúp phụ nữ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật. Góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.

- Đối tượng được trợ giúp pháp lý: Phụ nữ nghèo, phụ nữ có công với cách mạng, phụ nữ đơn thân, phụ nữ tàn tật, trẻ em gái mồ côi, 0hụ nữ dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

- Đối tượng trợ giúp: cán bộ Hội am hiểu pháp luật (chuyên môn luật), Luật sư, luật gia, tư vấn viên pháp luật.

- Hình thức và phạm vi trợ giúp

+ Tư vấn pháp luật: hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý

+ Tham gia tố tụng: (1) Bào chữa, bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; (2) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính.

+ Đại diện ngoài tố tụng: khi người được trợ giúp không thể tự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình

+ Các hình thức khác: hoà giải, thực hiện các công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật


4.6 Giải quyết đơn thư:
Là việc các cấp Hội tiếp nhận, nghiên cứu, phân loại, xử lý đơn thư của cán bộ, hội viên, phụ nữ và các đối tượng khác liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, trẻ em.

- Phương thức: (1) Giải quyết đơn thư thuộc thẩm quyền; (2) Chuyển đơn thư và kiến nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân xem xét giải quyết theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.

+ Cách làm: (1) Tiếp nhận, hướng dẫn cho đối tượng gửi đơn đúng cơ quan có thẩm quyền, đúng cấp đối với trường hợp đến phòng tiếp dân của Hội; (2) Đọc, nghiên cứu, phân loại đơn theo các tiêu chí cụ thể đối với đơn được gửi qua đường bưu điện; (3) Soạn thảo văn bản tham mưu cho lãnh đạo Hội, chuyển đơn, kiến nghị và trả lời đương sự


5. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu


5.1 Các hoạt động trọng tâm và thời gian:
(1) Xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược nghiên cứu của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020 (2008 - 2012); (2) Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng khoa học TW Hội và thành lập Hội đồng khoa học cấp tỉnh, thành ở các địa phương có điều kiện (2010 - 2012); (3) Nghiên cứu, đánh giá tác động 10 năm thực hiện Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (2010); (4) Bồi dưỡng cho cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam các cấp nâng cao kỹ năng nghiên cứu, xây dựng, đề xuất chính sách, phản biện xã hội, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý và giải quyết đơn thư; kiến thức, kỹ năng tham gia các Hội đồng, các Ban chỉ đạo và các đơn vị làm công tác tạo nguồn, quy hoạch cán bộ (2008 - 2012)


5.2 Chỉ tiêu/dự kiến kết quả chính:
(1) Năm 2009 hoàn thành việc xây dựng chiến lược; triển khai thực hiện Chiến lược từ 2010; (2) Hội đồng khoa học cấp TW có năng lực tổ chức thực hiện tốt các đề tài nghiên cứu cấp Bộ và tổ chức thực hiện được đề tài nghiên cứu cấp nhà nước. Hàng năm có ít nhất 2 đề tài nghiên cứu được nghiệm thu có giá trị đề xuất chính sách; (3) Các tỉnh, thành có điều kiện thành lập được Hội đồng khoa học và tổ chức nghiên cứu khoa học; (4) Có báo cáo thực trạng tác động của Luật hôn nhân, gia đình; (4) Có các loại tài liệu tập huấn và hướng dẫn kỹ thuật theo từng chuyên đề; (5) Cán bộ tham gia trực tiếp ở các cấp Hội được tập huấn hàng năm; (6) 100% cấp tỉnh và đơn vị trực thuộc có đại diện tham dự tập huấn TOT; (7) Mỗi năm có từ 1 - 2 tỉnh được hướng dẫn hỗ trợ kỹ thuật theo nhu cầu


5.3 Các biện pháp chính:
hướng dẫn, hỗ trợ kỹ thuật, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, trưng cầu ý kiến, thu thập thông tin


5.4 Các thức thực hiện:
(1) TW đầu tư chỉ đạo, xây dựng chiến lược và tổ chức thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học; (2) Đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghiên cứu, thu thập và phân tích thông tin cho cán bộ Hội các cấp; (3) Khuyến khích tỉnh, thành Hội nghiên cứu thành lập Hội đồng khoa học và triển khai đề tài nghiên cứu phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.


5.5 Mục đích:
Thông qua việc đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn về công tác phụ nữ để (1) Tham gia, đề xuất xây dựng pháp luật có chất lượng, hiệu quả; (2) Tham mưu đề xuất chiến lược phát triển phụ nữ và chỉ đạo phong trào phụ nữ.


5.6 Phân cấp nhiệm vụ:
(1) Trung ương và tỉnh: thực hiện các đề tài nghiên cứu; (2) Cấp huyện và xã: thu thập thông tin đánh giá việc thực hiện luật pháp, chính sách và phản hồi thông tin


5.7. Phương thức:
chỉ đạo, đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn kỹ thuật


6. Công tác cán bộ nữ


6.1 Các hoạt động trọng tâm và thời gian:
(1) Tham gia với cấp uỷ tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, giới thiệu nhân sự; tham mưu với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, UBTV Quốc hội và đề xuất với Chính phủ để có các hoạt động chỉ đạo nhằm tăng tỉ lệ phụ nữ tham gia trong Quốc hội khoá XIII và HĐND nhiệm kỳ 2011 - 2015 (2008 -2011); (2) Tổ chức các hoạt động nhằm tăng tỷ lệ nữ tham gia cấp uỷ, Quốc hội, HĐND nhiệm kỳ 2011 - 2015 (2010 - 2012)


6.2 Chỉ tiêu/dự kiến kết quả chính:
(1) TW Hội có văn bản tham mưu với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Thường vụ Quốc hội và đề xuất với Chính phủ để có các hoạt động chỉ đạo nhằm tăng tỉ lệ phụ nữ tham gia trong Quốc hội khoá XIII và Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2011 - 2015; (2) 100% cấp Hội và đơn vị trực thuộc có văn bản tham mưu cho cấp Uỷ cùng cấp tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, giới thiệu nhân sự nữ; (3) Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức tốt các chiến dịch truyền thông, các lớp bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng cho các nữ ứng cử viên đại biểu Quốc hội, HĐND nhiệm kỳ 2011 – 2015; (4) 100% cấp Hội tổ chức tốt tuyên truyền, vận động PN tham gia bầu cử


6.3 Các biện pháp chính:
đề xuất, đối thoại, chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng, giám sát


6.4 Các thức thực hiện:
tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ của Hội và các ngành.


6.5 Mục đích:
chuẩn bị cho các kỳ bầu cử đại biểu tham gia các cơ quan lãnh đạo của Đảng và cơ quan quyền lực nhà nước ở TW (Quốc hội) và địa phương (Hội đồng nhân dân), góp phần tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong quản lý, lãnh đạo


6.6 Phương thức:
(1) Phối hợp trong tham mưu, tạo nguồn, giới thiệu; (2) Chủ động trong việc đào tạo, bồi dưỡng, tuyên truyền, vận động


B. TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÂM


1. Tham gia xây dựng Nghị định Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình:
Cấp TW (1) Nghiên cứu, thu thập thông tin; (2) Tham gia Ban soạn thảo; (3) Tham mưu cho Đoàn Chủ tịch góp ý kiến bằng văn bản


2. Tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật:
Cấp TW, đơn vị trực thuộc, tỉnh, huyện và xã (1) Tham gia Ban soạn thảo (nếu được đề nghị); (2) Nghiên cứu văn bản hiện hành theo phạm vi tham gia của từng cấp, tổng hợp những vấn đề liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới đã được thể hiện trong các văn bản đó; (3) Đọc, nghiên cứu, đối chiếu, so sánh dự thảo văn bản do cơ quan có thẩm quyền gửi xin ý kiến; (4) Tham mưu cho Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch, Ban Thường vụ tham gia ý kiến bằng văn bản; (5) Tư vấn, hỗ trợ về kỹ thuật và nội dung tham gia theo phân cấp TW - tỉnh, tỉnh - huyện, huyện - xã.


3. Đề xuất ban hành một số biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và một số chính sách dành cho người mẹ


3.1 Cấp TW:
(1) Phân tích, lựa chọn ưu tiên phù hợp nguồn lực và thời gian; (2) Phân tích một số phương án dự kiến đề xuất trong lĩnh vực lựa chọn; (3) Viết văn bản đề xuất, trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, đề nghị Chính phủ


3.2 Cấp tỉnh và đơn vị trực thuộc:
(1) Chủ động kiến nghị với TW Hội về biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và hỗ trợ người mẹ cần đề xuất với Nhà nước; (2) Hỗ trợ TW tổ chức hoạt động nghiên cứu, đánh giá hoặc cung cấp thông tin có liên quan theo chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch; (3) Góp ý dự thảo văn bản đề xuất


3.3 Cấp huyện và xã:
thực hiện một số nhiệm vụ theo chỉ đạo của Ban Thường vụ cấp tỉnh


4. Đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình năm 2000


4.1 Cấp TW:
(1) Phân tích tác động của các quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình đối với phụ nữ trong bối cảnh hiện tại và dự báo tương lai; (2) Xác định những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi; (3) Trưng cầu ý kiến của các nhóm đối tượng: nhà hoạch định chính sách, chuyên gia giới, chuyên gia luật, phụ nữ, nam giới; (4) Viết dự thảo văn bản, thảo luận, hoàn thiện và trình Quốc hội


4.2 Cấp tỉnh và đơn vị trực thuộc:
(1) Chủ động kiến nghị với TW Hội về các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung; (2) Hỗ trợ TW tổ chức các hoạt động tại địa phương hoặc cung cấp thông tin có liên quan theo chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch; (3) Góp ý kiến dự thảo văn bản đề xuất được trưng cầu ý kiến


4.3 Cấp huyện và xã:
thực hiện một số nhiệm vụ theo chỉ đạo của Ban Thường vụ cấp tỉnh


5. Triển khai thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư về phản biện xã hội


5.1 Cấp TW:
(1) Xây dựng kế hoạch chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch quán triệt và tổ chức thực hiện Chỉ thị trong toàn bộ hệ thống Hội; (2) Bồi dưỡng báo cáo viên các cấp; (3) Thực hiện Chỉ thị theo trách nhiệm được giao của cấp TW


5.2 Cấp tỉnh và đơn vị trực thuộc:
(1) Xây dựng kế hoạch quán triệt, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chỉ thị trong phạm vi địa phương; (2) Xác định các chỉ tiêu thi đua; (3) Thực hiện trách nhiệm được giao của cấp tỉnh


5.3 Cấp huyện và xã:
(1) Quán triệt và tổ chức thực hiện Chỉ thị theo chỉ đạo của Ban Thường vụ cấp tỉnh trong phạm vi địa bàn; (2) Báo cáo tình hình quán triệt và tổ chức thực hiện Chỉ thị


6. Xây dựng, củng cố cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin khoa học về lý luận và thực tế cho công tác phản biện xã hội


6.1 Cấp TW:
(1) Xây dựng đề án và tổ chức mạng lưới cộng tác viên giới, pháp luật, quản lý nhà nước và nghiên cứu chính sách, pháp luật; (2) Ban hành Thông tin “Chính sách - Pháp luật ”; (3) Biên soạn, in ấn, phát hành tài liệu “Bình luận khoa học về Luật Bình đẳng giới” và “Từ điển pháp luật về Luật bình đẳng giới”; (4) Xây dựng phần mềm quản lý, phân tích, cập nhật thông tin; hướng dẫn sử dụng, duy trì hệ thống thông tin bằng email, báo cáo chuyên đề; (5) Tổ chức các diễn đàn đối thoại trực tiếp và gián tiếp giữa Đảng, Nhà nước với phụ nữ về chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; giữa Hội với các cơ quan ban hành văn bản


6.2 Cấp tỉnh, đơn vị trực thuộc, huyện, xã:
(1) Tìm hiểu, cập nhật, tổng hợp ý kiến của phụ nữ và dư luận về việc thực hiện quy định pháp luật đối với phụ nữ và đối tượng khác; (2) Phản ánh thường xuyên về những vấn đề liên quan đến giới, bình đẳng giới và sự phát triển của phụ nữ cho cấp trên trực tiếp; (3) Tổ chức các diễn đàn đối thoại trực tiếp và gián tiếp giữa cấp uỷ Đảng, Chính quyền với phụ nữ về chính sách bình đẳng giới; giữa Hội với cơ quan ban hành văn bản; (4) Xây dựng đề án và tổ chức mạng lưới cộng tác viên giới, pháp luật, quản lý nhà nước và nghiên cứu chính sách, pháp luật ở các địa phương có điều kiện.


7. Tổ chức phản biện xã hội và giám sát việc tiếp thụ ý kiến phản biện:
Cấp TW (1) Xây dựng kế hoạch thực hiện; (2) Phân tích, lựa chọn văn bản thí điểm phản biện xã hội; (3) Tổ chức phản biện xã hội; (4) Giám sát việc tiếp thụ ý kiến phản biện


8. Xây dựng mô hình điểm về hệ thống giám sát của Hội đối với việc thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới và nhân rộng mô hình trong toàn hệ thống Hội


8.1 Cấp TW:
(1) Hội thảo báo cáo kết quả đánh giá thực trạng và hội thảo về hệ thống giám sát của Hội; (2) Xây dựng phương án mô hình, phân tích và lựa chọn mô hình; (3) Biên soạn tài liệu, tập huấn nâng cao năng lực vận hành mô hình; (4) Đánh giá, nghiệm thu mô hình điểm


8.2 Hội Liên hiệp phụ nữ Nghệ An và Thanh Hoá:
(1) Chia sẻ kinh nghiệm, kết quả giám sát tại hội thảo TW tổ chức; (2) Tham gia ý kiến với TW về các phương án mô hình, phân tích và lựa chọn mô hình; (3) Cam kết và thực hiện mô hình (dọc - ngang)


8.3 Cấp tỉnh và đơn vị trực thuộc:
(1) Báo cáo thực trạng hoạt động giám sát và dự kiến, nhu cầu theo chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch; (2) Nghiên cứu, vận dụng mô hình phù hợp điều kiện địa phương


9. Giám sát việc thực hiện Nghị quyết 11, Luật Bình đẳng giới và văn bản quy phạm pháp luật khác


9.1 Cấp TW:
(1) Phân tích, xác định các văn bản quy phạm pháp luật để giám sát phù hợp với điều kiện nguồn lực và thời gian của Hội; (2) Xây dựng và phổ biến cho các cấp Hội chỉ số giám sát việc thực hiện Nghị quyết 11, Luật Bình đẳng giới và các văn bản quy phạm pháp luật; (3) Chỉ đạo, hướng dẫn giám sát cho các cấp Hội; (4) Hỗ trợ các cấp Hội trong việc xây dựng kế hoạch và tổ chức giám sát; (5) Chỉ đạo điểm và trực tiếp giám sát hoạt động tại 3 tỉnh (Bắc - Trung - Nam); nghe báo cáo kết quả giám sát tại 10 cụm thi đua (mỗi cụm ít nhất 1 tỉnh); (6) Tổ chức hội nghị đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết 11 và Luật Bình đẳng giới trong Hội


9.2 Cấp tỉnh, đơn vị trực thuộc, huyện, xã:
(1) Xây dựng kế hoạch và tổ chức giám sát việc thực hiện Nghị quyết 11, Luật Bình đẳng giới và ít nhất 1 văn bản pháp luật; (2) Phối hợp với cấp TW trong chỉ đạo điểm; (3) Hỗ trợ cấp dưới xây dựng kế hoạch và tổ chức giám sát; (4) Tham gia ý kiến xây dựng, hoàn thiện bộ chỉ số giám sát; (5) phản ánh tình hình và báo cáo kết quả giám sát (hàng năm, 5 năm, sau khi kết thúc công việc giám sát) cho cấp trên trực tiếp


10. Giám sát, đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010


10.1 Cấp TW:
(1) Xây dựng kế hoạch hướng dẫn các cấp Hội; (2) Nghe báo cáo giám sát tại một số địa phương (3 cấp) trong cụm thi đua; (3) Xây dựng báo cáo giám sát của Hội; (4) Kiến nghị, đề xuất những vấn đề liên quan trong quá trình xây dựng Chiến lược, mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.


10.2 Cấp tỉnh, đơn vị trực thuộc, huyện, xã:
(1) Xây dựng kế hoạch giám sát và thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương; (2) Phản ánh tình hình, báo cáo kết quả cho cấp trên trực tiếp; (3) Kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét khắc phục trong quá trình xây dựng, bổ sung, sửa đổi văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới.


11. Phối hợp tham mưu cho Chính phủ đánh giá 5 năm thực hiện Nghị định 19/2003/NĐ - CP


11.1 Cấp TW:
(1) Xây dựng kế hoạch phối hợp giữa Bộ Nội vụ và Hội hướng dẫn đánh giá tại các địa phương và chuẩn bị hội nghị toàn quốc; (2) Nghiên cứu điểm việc thực hiện Nghị định tại một số địa phương; (3) Phối hợp tổ chức Hội nghị toàn quốc đánh giá 5 năm.


11.2 Đơn vị trực thuộc:
tham mưu cho Bộ Quốc phòng, Bộ Công An, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đánh giá 5 năm thực hiện Nghị định


11.3 Cấp tỉnh, đơn vị trực thuộc và huyện:
Phối hợp với Sở/phòng Nội vụ tham mưu cho UBND đánh giá 5 năm; Báo cáo kết quả cho cấp trên trực tiếp


11.4 Cấp huyện và xã:
Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân xã đánh giá 5 năm thực hiện Nghị định

 

12. Khảo sát, đánh giá thực trạng mạng lưới tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý (miễn phí), công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp


12.1 Cấp TW:
(1) Xây dựng kế hoạch khảo sát, đánh giá; (2) Xây dựng công cụ khảo sát, đánh giá; (3) Tổ chức khảo sát, đánh giá; (4) Nghiệm thu kết quả khảo sát, đánh giá


12.2 Cấp tỉnh, đơn vị trực thuộc và huyện:
(1) Báo cáo thực trạng mạng lưới tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của cấp mình (bằng văn bản) theo chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch; (2) Kiến nghị, đề xuất các vấn đề liên quan đến mạng lưới tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; (3) Hỗ trợ TW tổ chức khảo sát, đánh giá điểm


12.3 Cấp huyện và xã:
(1) Báo cáo thực trạng công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo (bằng văn bản) theo chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch; (2) Hỗ trợ TW tổ chức khảo sát, đánh giá điểm


13.
Mở rộng và thành lập mới các trung tâm, tổ/nhóm tư vấn pháp luật tại địa phương


13.1 Cấp TW:
(1) Xây dựng kế hoạch chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ và mở rộng, thành lập mới trung tâm, tổ/nhóm tư vấn pháp luật các cấp Hội; (2) Đăng ký nghiệp vụ tư vấn viên pháp luật


13.2 Cấp tỉnh, huyện và đơn vị trực thuộc:
(1) Xây dựng kế hoạch thực hiện; (2) Tổ chức hoạt động của Trung tâm hoặc tổ/nhóm tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý; (3) Đăng ký nghiệp vụ tư vấn viên pháp luật


14. Xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược nghiên cứu của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020


14.1 Cấp TW:
(1) Hội thảo tập huấn kỹ năng xây dựng Chiến lược nghiên cứu; (2) Xây dựng Chiến lược; (3) Phổ biến và tổ chức thực hiện Chiến lược (2010 - 2012); (4) Giám sát và đánh giá 3 năm thực hiện Chiến lược (2010 - 2012); (5) Thực hiện trách nhiệm đơn vị đầu mối công tác quản lý nghiên cứu khoa học của TW Hội


14.2 Cấp tỉnh và đơn vị trực thuộc:
(1) Phản hồi thông tin đề xuất vấn đề trong Chiến lược nghiên cứu; (2) Hỗ trợ TW trong việc xây dựng Chiến lược; (3) Thực hiện Chiến lược phù hợp điều kiện thực tế của địa phương


14.3 Cấp huyện và xã:
(1) Phản hồi thông tin đề xuất vấn đềtrong Chiến lược nghiên cứu; (2) Hỗ trợ TW trong việc xây dựng Chiến lược


15. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng khoa học TW Hội và thành lập Hội đồng khoa học cấp tỉnh, thành ở các địa phương có điều kiện


15.1 Cấp TW:
(1) Bồi dưỡng kỹ năng nghiên cứu phát hiện vấn đề, nghiên cứu xây dựng chính sách, pháp luật; nghiên cứu ứng dụng, triển khai nhiệm vụ chuyên môn; nghiên cứu phục vụ đào tạo…cho cán bộ TW và tỉnh, thành hàng năm; (2) Bồi dưỡng kỹ năng xử lý và sử dụng dữ liệu, thông tin định lượng, định tính; (3) Bồi dưỡng kỹ năng viết báo cáo nghiên cứu và kiến nghị, đề xuất từ kết quả nghiên cứu; (4) Tổ chức thực hiện các đề tài nghiên cứu đề xuất chính sách và xây dựng các đề án hỗ trợ phụ nữ nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong các lĩnh vực: lao động, giáo dục đào tạo, việc làm và gia đình; tập trung các đối tượng người mẹ, phụ nữ nghèo, phụ nữ tàn tật, phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ cao tuổi, nữ thanh niên


15.2 Cấp tỉnh:
(1) Phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ về hoạt động nghiên cứu khoa học về giới và phụ nữ tại địa phương; (2) Xây dựng đề án thành lập Hội đồng khoa học của tỉnh, thành; (3) Xây dựng các đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến phụ nữ, giới và phát triển, hoạt động của Hội và đề xuất, xây dựng chính sách, pháp luật


15.3 Cấp huyện và xã có trách nhiệm:
thu thập thông tin đánh giá việc thực hiện luật pháp, chính sách và phản hồi thông tin


16. Nghiên cứu, đ
ánh giá tác động 10 năm thực hiện Luật hôn nhân và gia đình năm 2000


16.1 Cấp TW:
(1) Xây dựng kế hoạch nghiên cứu, đánh giá; (2) Xây dựng công cụ nghiên cứu, đánh giá; (3) Tổ chức nghiên cứu, đánh giá; (4) Nghiệm thu kết quả nghiên cứu, đánh giá


16.2 Cấp tỉnh, huyện, xã:
(1) Cập nhật và báo cáo tình hình thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình từ 2008 - 2010; (2) Hỗ trợ TW tổ chức các hoạt động nghiên cứu, đánh giá điểm tại 1 số địa phương; (3) Tham dự các hoạt động theo yêu cầu của cấp trên trực tiếp


17. Bồi dưỡng kỹ năng nghiên cứu, xây dựng, đề xuất chính sách, phản biện xã hội, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý và giải quyết đơn thư; kiến thức, kỹ năng tham gia các Hội đồng, các Ban chỉ đạo ...


17.1 Cấp TW:
(1) Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ hàng năm chỉ đạo các cấp Hội và đơn vị trực thuộc; (2) Biên soạn và cung cấp tài liệu giảng dạy theo từng chuyên đề; (3) Đào tạo TOT và cán bộ hỗ trợ nghiệp vụ; (4) Hỗ trợ kỹ thuật cho các cấp Hội xây dựng đề xuất chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; (5) Bồi dưỡng kiến thức và hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo cho cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ; (6) Cung cấp thông tin cập nhật liên quan đến từng chuyên đề


17.2 Cấp tỉnh và đơn vị trực thuộc:
(1) Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ hàng năm; (2) Cử cán bộ tham dự các khoá đào tạo TOT; (3) Tổ chức các khoá tập huấn, hỗ trợ kỹ thuật, nghiệp vụ cho cán bộ huyện, xã; (4) Đề xuất nhu cầu bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng cho cán bộ Hội


17.3 Cấp huyện và xã:
Đề xuất nhu cầu và cử cán bộ tham gia bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng


18. Tham gia với cấp uỷ tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, giới thiệu nhân sự; tham mưu với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, UB Thường vụ Quốc hội và đề xuất với Chính phủ để có hoạt động chỉ đạo nhằm tăng tỉ lệ phụ nữ tham gia trong Quốc hội khoá XIII và HĐND nhiệm kỳ 2011 - 2015


18.1 Cấp TW:
(1) Xây dựng kế hoạch chỉ đạo hàng năm; (2) Hướng dẫn, hỗ trợ kỹ thuật, nghiệp vụ cho các tỉnh, thành Hội và đơn vị trực thuộc; (3) Kiến nghị, tham mưu bằng văn bản với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Thường vụ Quốc hội, đề xuất với Chính phủ có hoạt động chỉ đạo nhằm tăng tỉ lệ phụ nữ; (4) Đối thoại/làm việc với cơ quan có thẩm quyền cùng cấp và cấp dưới; (5) Giới thiệu nhân sự, tham gia hiệp thương nhân sự, tham gia các hoạt động tổ chức bầu cử đại biểu tham gia cơ quan lãnh đạo của Đảng ở TW và Quốc hội


18.2 Cấp tỉnh, đơn vị trực thuộc, huyện, xã:
(1) Hướng dẫn, hỗ trợ nghiệp vụ cho cấp dưới; (2) Kiến nghị/tham mưu bằng văn bản với cấp Uỷ cùng cấp tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, giới thiệu nhân sự nữ; (3) Đối thoại/làm việc với cơ quan hữu quan, cơ quan có thẩm quyền cùng cấp và cấp dưới; (4) Giới thiệu nhân sự, tham gia hiệp thương nhân sự, tham gia các hoạt động tổ chức bầu cử đại biểu tham gia cấp uỷ Đảng, Hội đồng nhân dân và UBND cùng cấp


19. Tổ chức các hoạt động nhằm tăng tỷ lệ nữ tham gia cấp uỷ, Quốc hội, Hội đồng Nhân dân nhiệm kỳ 2011 - 2015.


19.1 Cấp TW:
(1) Đề nghị cấp Uỷ tạo cơ chế cho Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam các cấp tham gia trong quá trình lựa chọn, đề nghị, sắp xếp danh sách các ứng cử viên; (2) Xây dựng kế hoạch chỉ đạo và hướng dẫn, hỗ trợ kỹ thuật, nghiệp vụ cho các tỉnh, thành Hội và đơn vị trực thuộc; (3) Phối hợp với Ban tổ chức TW rà soát quy hoạch cán bộ nữ và sửa đổi, bổ sung quy định về chính sách đối với cán bộ nữ đi đào tạo, bồi dưỡng; (4) Phối hợp với Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các Bộ, ngành liên quan (a) Khai thác các nguồn hỗ trợ kỹ thuật và tài chính; (b) Biên soạn, cung cấp tài liệu tuyên truyền và tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhân thức của các cấp lãnh đạo và nhân dân về vai trò, vị trí của phụ nữ trong gia đình và xã hội thời kỳ dẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập; (c) Tập huấn kiến thức và kỹ năng cho các nữ ứng cử viên; (5) Giới thiệu, đề cử cán bộ nữ vào các chức danh cơ cấu cấp uỷ; giới thiệu phụ nữ đủ tiêu chuẩn tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân và tham gia quản lý, lãnh đạo Uỷ ban nhân dân các cấp; (6) Tăng cường chỉ đạo và hỗ trợ các cấp Hội nâng cao chất lượng các hoạt động hỗ trợ phụ nữ và cán bộ nữ nâng cao trình độ nhận thức, hiệu quả công việc và tạo dựng uy tín


19.2 Cấp tỉnh, huyện, xã:
(1) Xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương; (2) Phối hợp với Ban tổ chức cấp uỷ cùng cấp (a) Rà soát quy hoạch cán bộ nữ; (b) Cử cán bộ nữ đi đào tạo, bồi dưỡng; (c) Giới thiệu, đề cử cán bộ nữ vào chức danh cơ cấu cấp uỷ; (d) Tạo nguồn cán bộ nữ, giới thiệu phụ nữ ưu tú với Đảng; (đ) Đánh giá công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ; (3) Thống kê số liệu tách biệt theo giới tính; (4) Thực hiện tốt vai trò thành viên Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử; (5) Phân bổ tài liệu tuyên truyền cho cấp dưới; (6) Nâng cao chất lượng các hoạt động hỗ trợ phụ nữ và cán bộ nữ nâng cao trình độ nhận thức, hiệu quả công việc và tạo dựng uy tín

Phụ lục 1. CÁC CĂN CỨ PHÁP LÝ

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X:
“Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thày đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”.

Nghị quyết số 11-NQ/TƯ ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước : "Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình, trong đó hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam"


Hiến pháp 1992
:

- Điều 9: "MTTQVN là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước; Nhà nước tạo điều kiện để MTTQ và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả."


- Điều 87:
"Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội; Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội; Thủ tục trình Quốc hội dự án luật, kiến nghị về luật do luật định".


- Điều 111
: Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan.


- Điều 125:
"Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan; HĐND, UBND thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với MTTQVN và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương”.


Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật:


- Điều 3: Tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân có quyền tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

2. Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, căn cứ vào tính chất và nội dung của dự án, dự thảo, cơ quan, tổ chức hữu quan tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến; tổ chức lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của VB trong phạm vi và với hình thức thích hợp.

3. Ý kiến tham gia về dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được nghiên cứu để tiếp thu chỉnh lý dự án, dự thảo văn bản.''


- Điều 30: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tham gia ý kiến vào dự án luật, dự ánpháp lệnh

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền tham gia ý kiến vào dự án luật, dự án pháp lệnh; Đối với dự án luật, dự án pháp lệnh có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về tổ chức bộ máy nhà nước, thì cơ quan soạn thảo có trách nhiệm gửi dự án luật, dự án pháp lệnh đến Mặt trận Tổ quốc VN và các tổ chức thành viên để lấy ý kiến.


- Điều 18.
Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên tịch

Căn cứ vào Hiến pháp, luật,nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ,các cơ quan, tổ chức sau đây có thể phối hợp ban hành VBQPPL liên tịch để hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình: (1) Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; (2) Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; (3)TAND tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; (4) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội trong trường hợp pháp luật có quy định việc tổ chức chính trị - xã hội tham gia quản lý nhà nước


- Điều 40.
Tham gia góp ý kiến vào dự án luật, dự án pháp lệnh

1- Công dân góp ý kiến về dự án luật, dự án pháp lệnh thông qua cơ quan, tổ chức của mình, trực tiếphoặc gửi thư góp ý tới Văn phòng Quốc hội, cơ quan, tổ chức soạn thảo dự án hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.

2- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân có trách nhiệm tổ chức, tạo điều kiện để công dân thuộc tổ chức, cơ quan, đơn vị mình tham gia ý kiến vào dự án luật, dự án pháp lệnh.


- Điều 73.
Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội

Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơquan TW của tổ chức CT - XH được ban hành để hướng dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật quy định về việc tổ chức CT - XH đó tham gia quản lý nhà nước.


- Điều 81.
Quốc hội giám sát, xử lý văn bản trái pháp luật

1- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với VBQPPL của các các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Chương II của Luật này.

2- Theo đề nghị của UBTVQH, Chủ tịch nước, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, MTTQVN và các tổ chức thành viên, đại biểu Quốc hội, Quốc hội xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ luật, nghị quyết của Quốc hội trái Hiến pháp; xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ VBQPPL của UBTVQH, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TAND tối cao, VKSND cao trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.


Luật Bình đẳng giới:

- Điều 29: Trách nhiệm của MTTQVN và các tổ chức thành viên

1. Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và tham gia quản lý nhà nước về bình đẳng giới theo quy định của pháp luật.

2. Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức.

3. Tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới.

4. Tuyên truyền, vận động nhân dân, hội viên, đoàn viên thực hiện BĐG


- Điều 30: Trách nhiệm của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam

1. Tổ chức các hoạt động hỗ trợ phụ nữ góp phần thực hiện mục tiêu BĐG

2. Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan bồi dưỡng, giới thiệu phụ nữ đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; phụ nữ đủ tiêu chuẩn tham gia quản lý, lãnh đạo các cơ quan trong hệ thống chính trị.

3. Thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em gái theo quy định của pháp luật.

4. Thực hiện phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật về BĐG


Nghị định 19/2003/NĐ-CP ngày 7/3/2003:


Điều 2.
Cơ quan hành chính nhà nước các cấp có trách nhiệm phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho Hội Phụ nữ cùng cấp tham gia các hoạt động quản lý nhà nước liên quan đến phụ nữ, trẻ em như sau:

1. Mời đại diện Hội Phụ nữ cùng cấp tham gia thảo luận hoặc gửi dự thảo văn bản để Hội Phụ nữ góp ý kiến khi xây dựng, sửa đổi, bổ sung các VBQPPL; khi xây dựng, bổ sung chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và CS liên quan đến phụ nữ, trẻ em.

2. Mời đại diện Hội Phụ nữ cùng cấp tham gia với tư cách là thành viên chính thức trong các tổ chức tư vấn cho cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp (Hội đồng, ủy ban, Ban Chỉ đạo, Ban Quản lý) về các vấn đề có liên quan đến phụ nữ và trẻ em như: giải quyết lao động, việc làm, đời sống, sức khoẻ, đất đai, nhà ở, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.

3. Định kỳ phối hợp với Hội Phụ nữ cùng cấp tổ chức các cuộc họp để thu thập ý kiến về tình hình thực hiện chủ trương, LP, CS và phát hiện những hành vi vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của PN, TE để kịp thời giải quyết.

4. Mời đại diện của HPN cùng cấp tham gia các đoàn kiểm tra những vấn đề cóliên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ, trẻ em. Các cơ quan, đơn vị được kiểm tra có trách nhiệm cung cấp số liệu, tài liệu cần thiết liên quan đến công tác kiểm tra.

Phụ lục 2. MẪU VĂN BẢN GÓP Ý KIẾN DỰ THẢO LUẬT

HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM                           CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VN
ĐOÀN CHỦ TỊCH                                                              Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số/ĐCT-LPCS                                                                 Hà Nội, ngày 02 tháng 01 năm 2008

Kính gửi:- Văn phòng Chính phủ
- Bộ Nội Vụ

 

Phúc đáp Công văn số 821/VPCP - XDPL ngày 30 tháng 11 năm 2007 của Văn phòng Chính phủ, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã cử cán bộ tham dự nghe giới thiệu dự án Luật Công vụ và đã tổ chức nghiên cứu và tổ chức lấy ý kiến tham của các Ban, đơn vị cơ quan Trung ương Hội về dự thảo luật này. Chúng tôi đánh giá cao những nỗ lực của Ban soạn thảo và cơ bản đồng tình với đa số quy định dự kiến và những lý giải của Ban soạn thảo cho những vấn đề còn ý kiến khác nhau.

Dưới góc độ của cơ quan đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ (trong đó có công chức nữ) và trên quan điểm bình đẳng giới, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam xim tham gia thêm một số ý kiến sau:


1. Ban soạn thảo cần tính toán thêm việc thực hiện Điều 21 Luật Bình đẳng giới về “lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật”.


Hiện nay, dự thảo đã có Điều 19 quy định về quyền lợi đối với công chức nữ. Quy định này còn quá chung chung, không rõ ràng. Một điều quy định này không thể hiện được việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật như quy định của Điều 21 Luật Bình đẳng giới.


Giữa cán bộ, công chức (theo Pháp lệnh cán bộ, công chức), công chức (theo dự thảo Luật Công vụ) và người lao động (theo quy định của Bộ luật lao động) có nhiều điểm tương đồng, nhưng cũng có những điểm khác biệt. Do vậy, việc quy định dẫn chiếu này không thể hiện được đầy đủ ý nghĩa của việc bảo đảm bảo đảm các nguyên tắc và chính sách cơ bản của nhà nước về bình đẳng giới. Đồng thời cũng chưa bảo đảm hết các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác ngoài pháp luật về lao động đã quy định dành riêng cho phụ nữ, lao động nữ nói chung và công chức nữ nói riêng. Ví dụ: pháp luật về hình sự, hôn nhân gia đình…


Căn cứ quy định của Luật Bình đẳng giới, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu xem xét điều chỉnh, bổ sung một số điểm liên quan đến vấn đề này như sau:

Thứ nhất, đề nghị bổ sung vào Điều 11 Khoản 6 quy định về “Bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về BĐG trong đánh giá, sử dụng và đãi ngộ công chức”

Thứ hai, đề nghị bổ sung vào Điều 15 Khoản 5 quy định về “Được bảo đảm trang bị các kỹ năng nghiệp vụ thực thi công vụ và kỹ năng bảo đảm bình đẳng giới liên quan đến chức trách công vụ của bản thân”

Thứ ba, đề nghị bổ sung vào Điều 16 khoản 6 quy định về “Công chức nữ có thời gian nghỉ sinh con theo quy định của pháp luật nhưng vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và đạt đủ các tiêu chuẩn khác theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng, được bảo đảm quyền lợi khen thưởng trong năm công tác đó”

Thứ tư, đề nghị sửa lại Điều 19 như sau:

“Điều 19. Quyền lợi chính trị, đào tạo và đặc thù giới tính

1. Được đề bạt, bổ nhiệm vào vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức; bổ nhiệm vào các chức danh ngành nghề trong các cơ quan, tổ chức có tiêu chuẩn chức danh trên cơ sở bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi, không phân biệt nam, nữ.

Công chức nữ được ưu tiên đề bạt, bổ nhiệm trước trong trường hợp cả nam và nữ cùng đạt các tiêu chuẩn như nhau.

2. Công chức nữ được ưu tiên cử đi đào tạo, bồi dưỡng sớm hơn so với công chức nam và được thực hiện đào tạo, bồi dưỡng theo nhiều hình thức linh hoạt phù hợp với đặc điểm giới tính.

3. Công chức nữ được bảo đảm các chính sách dành cho người mẹ và các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới quy định trong Bộ Luật lao động, Bộ Luật hình sự, Luật Bình đẳng giới và các văn bản quy phạm pháp luật khác.”

Thứ năm, đề nghị bổ sung vào Khoản 1 Điều 21 từ “công bằng” sau từ “công tâm” cho rõ ràng và đầy đủ hơn với nghĩa là công chức không chỉ hoạt động vì lợi ích chung mà còn biết xem xét khía cạnh công bằng và bình đẳng trong hoạt động vì lợi ích chung đó.

Thứ sáu, đề nghị bổ sung vào Điều 24 Khoản 5 quy định về “Phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức”

Thứ bảy, đề nghị bổ sung vào Điều 27 Khoản 4 quy định về “Không thực hiện hoặc cản trở việc bổ nhiệm nam, nữ vào cương vị quản lý, lãnh đạo hoặc các chức danh chuyên môn vì định kiến giới”

Thứ tám, đề nghị bổ sung vào Khoản 1 Điều 41 từ “độ tuổi” sau từ “nam, nữ” cho chặt chẽ. Thực tế đã quy định tuổi tuyển dụng như nhau giữa nam và nữ, cần được luật hoá để thuận lợi cho việc thực thi luật bảo đảm quyền lợi cho phụ nữ và nam giới.

Thứ chín, đề nghị bổ sung vào Khoản 4 Điều 72 đoạn quy định “mang thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi, trừ trường hợp công chức từ chối” vào trước đoạn “đang bị xem xét kỷ luật...”


2. Ban soạn thảo nghiên cứu, tính toán thêm việc quy định về nghỉ hưu và kéo dài thời công tác của công chức

13 năm qua, vấn đề tuổi hưu đã gây nên nhiều tranh cãi, đến nay vẫn chưa có khả năng xem xét thấu đáo.

Năm 2002, khi xem xét thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật lao động, Quốc hội đã đề nghị Chính phủ tạm hoãn việc sửa đổi quy định về tuổi hưu của cán bộ, công chức để chờ sửa đổi Pháp lệnh cán bộ, công chức. Do vậy, vấn đề tuổi hưu chưa được xem xét điều chỉnh cho hợp lý.

Khi Pháp lệnh cán bộ, công chức được sửa đổi năm 2003 không xem xét vấn đề này vì cơ quan soạn thảo cho rằng gốc của quy định tuổi hưu nằm ở Bộ Luật lao động chứ không nằm trong Pháp lệnh này

Xác định Bộ Luật lao động có giá trị ngang với các Luật nên khi dự thảo Luật Bình đẳng giới, vấn đề này đã được đặt ra, nhưng Quốc hội chưa chấp nhận xem xét vì nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là phải chờ sửa đổi Bộ Luật lao động.

Điều 4 Bộ Luật lao động quy định Chế độ lao động đối với công chức, viên chức Nhà nước, người giữ các chức vụ được bầu, cử hoặc bổ nhiệm, người thuộc lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân, người thuộc các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị, xã hội khác và xã viên hợp tác xã do các văn bản pháp luật khác quy định nhưng tuỳ từng đối tượng mà được áp dụng một số quy định trong Bộ luật này”. Quy định này có nghĩa là không nhất thiết mọi chế độ liên quan đến công chức đều nhất nhất theo quy định của Bộ Luật lao động.

Việc xây dựng Luật Công vụ thay thế cho Pháp lệnh cán bộ, công chức là điều kiện thuận lợi để xem xét vấn đề này. Tuy nhiên, Khoản 1 Điều 73 của dự thảo vẫn quy định không khác gì Pháp lệnh cán bộ, công chức.

Dưới góc độ tiếp cận quyền và trên quan điểm giới, bảo đảm thực hiện Điều 6, 13 (Khoản 1) và Điều 21 Luật Bình đẳng giới, chúng tôi xin đề nghị 2 điểm liên quan đến vấn đề này:

Thứ nhất, Ban soạn thảo cần tính toán thêm quy định về nghỉ hưu của công chức theo hướng tăng, giảm hợp lý. Quy định này chỉ thực hiện đối với công chức nên người lao động thuộc các thành phần kinh tế khác không bị ảnh hưởng. Tuổi đi học, đào tạo bậc học phổ thông, đại học và tuổi tuyển dụng của nam, nữ là như nhau thì về nguyên tắc tuổi hưu cũng phải quy định cùng độ tuổi theo vị trí công việc. Đồng thời có quy định ưu tiên lựa chọn việc nghỉ trước hay sau tuổi nguyên tắc để bảo đảm đáp ứng nhu cầu thực tế của một bộ phận công chức.

Quy định này nên được thiết kế tương tự cách thiết kế quy định cho phụ nữ nghỉ sinh con. Đó là “Tuổi nghỉ hưu của công chức không phân biệt nam, nữ từ 55 đến 60. Công chức có quyền

- Nghỉ trước 55 trong trường hợp sức khoẻ yếu hoặc theo nhu cầu của bản thân. Khi nghỉ ở tuổi này sẽ bị trừ phần trăm lương hưu do nghỉ trước tuổi.

- Nghỉ sau 60 trong trường hợp có đủ sức khoẻ, cơ quan có nhu cầu tiếp tục sử dụng và công chức đồng ý. Công chức tiếp tục làm việc sau tuổi 60 không giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo”.

Quy định này sẽ thay thế cho Điều 73 và 74 của dự thảo hiện nay. Nó có một số ưu điểm sau:

+ Bảo đảm lợi ích cho công chức theo hướng tiếp cận quyền và trên nguyên tắc bình đẳng giới.

+ Là quy định linh hoạt về độ tuổi áp dụng cho cả nam và nữ phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp, đáp ứng được nguyện vọng khác nhau của một số nhóm công chức.

+ Công chức nam, nữ nếu muốn về nghỉ trước tuổi luật định đều được quyền nhưng phải chấp nhận một số điều kiện cụ thể, điều kiện này do chính công chức quyết định.

Quy định này sẽ là cơ sở để thực hiện nguyên tắc bình đẳng giới về độ tuổi đề bạt, bổ nhiệm, cử đi đào tạo, bồi dưỡng, ứng cử, đề cử vào các cơ quan của Đảng và cơ quan quyền lực nhà nước ở Trung ương và địa phương của công chức theo quy định tại Điều 11, 14 Luật Bình đẳng giới.

Thứ hai,Khoản 2 Điều 70 Luật Bảo hiểm xã hội quy định trường hợp nam đủ sáu mươi tuổi, nữ đủ năm mươi lăm tuổi nhưng thời gian đóng bảo hiểm xã hội còn thiếu không quá năm năm so với thời gian quy định để được hưởng lương hưu hàng tháng thì được đóng tiếp cho đến khi đủ hai mươi năm. Điều này có nghĩa là những người đủ tuổi mà năm đóng bảo hiểm đủ 15 năm sẽ không có cơ hội để hưởng lương hưu hàng tháng vì không đáp ứng được điều kiện trên. Bất lợi rơi chủ yếu vào nhóm công chức cấp xã thuộc các tổ chức chính trị - xã hội do đặc thù. Do vậy, họ chịu thiệt thòi và đang có rất nhiều tâm tư về vấn đề này. Việc xem xét sửa đổi quy định này thuộc phạm vi của Luật Bảo hiểm xã hội, nhưng dưới góc độ quy định về chế độ nghỉ hưu cho công chức, Ban soạn thảo cũng nên nghiên cứu tính toán thêm vấn đề này một cách hợp lý trong dự thảo Luật này.


3. Một số ý kiến khác

Thứ nhất,Điều 34 nên thể hiện lại cho rõ. Quy định này thay cho định biên. Điều này rất quan trọng để các yếu tố của nền công vụ phát huy được hiệu quả. Tuy nhiên, vị trí việc làm phụ thuộc vào nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ mà định số vị trí việc làm. Do vậy, điều này nên thể hiện theo hướng “Điều 34. Thẩm quyền quyết định vị trí việc làm

1. Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, các cơ quan, tổ chức xác định vị trí việc làm phù hợp, trình cơ quan có thẩm quyền quyết định.

2. Thẩm quyền quyết định vị trí làm việc của cơ quan, tổ chức gồm:

a. Thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội: quyết định tổng số vị trí việc làm của……;

b. Chỉ tịch nước……….;

c. Chính phủ………………………..”

Thứ hai, Điều 37. Bổ sung thêm đoạn quy định “và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan” vì Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ có thẩm quyền quy định về các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong các văn bản khác ngoài những văn bản đã liệt kê trong dự thảo điều này.

Thứ ba, Điều 44. Đề nghị xác định rõ thời gian tập sự trong luật này

Trên đây là một số ý kiến đóng góp của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam để hoàn thiện dự thảo Luật Công vụ, kính chuyển Văn phòng Chính phủ và Bộ Nội vụ tham khảo và chỉnh lý.

                    
                                                                                    TM. ĐOÀN CHỦ TỊCH

Nơi nhận:                                                                                               CHỦ TỊCH

- Như trên;

- Uỷ Ban các vấn đề xã hội của Quốc hội;

- Uỷ ban pháp luật của Quốc hội;

- Nữ đại biểu Quốc hội khoá XII;

- Lưu VT, LPCS

                                                                                   Nguyễn Thị Thanh Hoà


Phụ lục 3. MẪU VĂN BẢN ĐỀ XUẤT

HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM                CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐOÀN CHỦ TỊCH                                                      Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số 907/ĐCT-LPCS                                                   Hà Nội, ngày 25tháng 9 năm 2007

 

 

                 Kính gửi: Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng - Thủ tướng Chính phủ

 

Để chuẩn bị triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới, ngày 03 tháng 5 năm 2007, Thủ tướng đã ban hành Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg, trong đó tạm giao cho Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em chủ trì, phối hợp với các Bộ, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam phổ biến, giáo dục Luật Bình đẳng giới; dự thảo 03 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới và rà soát văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. 


Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội khoá XII về tổ chức bộ máy nhà nước nhiệm kỳ 2007 - 2012, Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em đã giải thể. Các chức năng, nhiệm vụ của Uỷ ban đã chuyển về các Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế và Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch.


Đoàn Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trân trọng đề nghị Thủ tướng Chính phủ tạm giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục triển khai các nhiệm vụ đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em tại Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg ngày 3/5/2007 chủ trì, phối hợp với Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ đầu mối về giới cho các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, tổ chức khác. 


Đồng thời, kính đề nghị Thủ tướng giao Bộ Nội vụ phối hợp với Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam nghiên cứu trình Thủ tướng về cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì giúp Chính phủ quản lý nhà nước về bình đẳng giới cho phù hợp với tình hình hiện nay.

Trân trọng đề nghị và kính mong Thủ tướng Chính phủ quan tâm, tạo điều kiện để Luật Bình đẳng giới đi vào cuộc sống và phát huy được hiệu quả.


Xin trân trọng cảm ơn.

                                                               TM. ĐOÀN CHỦ TỊCH

Nơi nhận:                                                                                    CHỦ TỊCH

- Như kính gửi;

- Uỷ ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội;

- Ban Xây dựng pháp luật, VPCP;

- Vụ Văn xã Văn phòng Chính phủ;

- Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của PNVN;

- Lưu VT, LPCS.                                                                     Hà Thị Khiết

                                                           (đã ký)

 

Phụ lục 4. MẪU VĂN BẢN ĐỀ XUẤT

 

HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM                     CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

BAN CHẤP HÀNH TW                                                   Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số 917/BCH-LPCS                                                        Hà Nội, ngày 27 tháng 9 năm 2007

 

ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG PHỤ NỮ

 

                         Kính gửi: - Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,

                                         - Chính phủ

 

Là người mẹ - người thày đầu tiên của con người, phụ nữ luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, tạo điều kiện về nhiều mặt. Đồng thời, phụ nữ cũng đã có nhiều đóng góp tích cực và hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm qua, cùng với sự đổi thay về mọi mặt của đất nước, các hoạt động vì sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ Việt Nam cũng có nhiều thay đổi. Nội dung, phương thức, tính chất hoạt động và vai trò chủ thể ngày càng đa dạng, đan xen nhiều chiều và phức tạp hơn.


Xuất phát từ vị trí pháp lý và trách nhiệm, quyền hạn của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật, nhằm tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được trong các hoạt động dành cho phụ nữ, góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và xây dựng đất nước ổn định về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về an ninh quốc phòng và xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đề xuất và kính đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét đưa Luật về hoạt động phụ nữ vào Chương trình xây dựng luật và pháp lệnh của Quốc hội khoá XII, nhiệm kỳ 2007 - 2011.

Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam xin trân trọng báo cáo và giải trình về vấn đề này như sau:


I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG PHỤ NỮ


1. Tiếp tục thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về công tác phụ nữ

Trong suốt quá trình cách mạng, Ðảng ta luôn quan tâm lãnh đạo công tác phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Nhiều văn bản về công tác phụ nữ của Đảng đã được ban hành phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước như Nghị quyết số 152-NQ/TW ngày 10/01/1967 của Bộ Chính trị về một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận, Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 7/6/1984 của Ban Bí thư về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ, Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư TW về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới…


Trên cơ sở đó, Nhà nước ta đã cụ thể hoá các quan điểm, chủ trương, chính sách lớn của Đảng đối với phụ nữ thành các quy định cụ thể của pháp luật nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới.


Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta[4] nhận định: trước yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình phụ nữ và công tác phụ nữ còn nhiều mặt hạn chế, đồng thời lại có những vấn đề mới đặt ra với nhiều thách thức. Từ đó, Đảng ta khẳng định “Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình. Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam”. Đảng ta cũng đã khẳng định rõ quan điểm “Công tác phụ nữ phải sát hợp với từng đối tượng, vùng, miền, phát huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của các tầng lớp phụ nữ, góp phần tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển đất nước; đồng thời phải chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng để phụ nữ có điều kiện thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người”.


Các quan điểm trên của Đảng về công tác phụ nữ cần tiếp tục được thể chế hoá thành các quy định của pháp luật để thực hiện một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới là phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội[5].


2. Tạo hành lang pháp lý hỗ trợ phụ nữ có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của tình hình thực tế.


Các hoạt động phụ nữ bao gồm tất cả các hoạt động do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội và các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thực hiện dành cho phụ nữ.


Tại mỗi thời kỳ khác nhau của lịch sử đất nước, các hoạt động phụ nữ có sự thay đổi và thích ứng cho phù hợp. Trong những năm đất nước còn chiến tranh và khoảng chục năm sau ngày thống nhất đất nước, các hoạt động phụ nữ chủ yếu tập trung vào việc vận động phụ nữ đóng góp công sức cùng cả nước đấu tranh giành độc lập và khôi phục lại đất nước. Từ sau năm 1986 đến nay, hoạt động phụ nữ đã có nhiều thay đổi phong phú hơn về hình thức, đa dạng hơn về nội dung, gắn chặt chẽ hơn với các mục tiêu quản lý nhà nước, quản lý xã hội và mục tiêu bình đẳng giới…, không chỉ vận động mà còn hỗ trợ phụ nữ về mọi mặt để thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân.

Cùng với sự thay đổi của hoạt động phụ nữ, các chủ thể thực hiện các hoạt động phụ nữ cũng có nhiều thay đổi. Trước năm 1986, hoạt động phụ nữ chỉ do các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội thực hiện. Từ 1986 trở lại đây, chủ thể tiến hành các hoạt động phụ nữ đã mở rộng hơn, được thực hiện bởi tất cả các tổ chức, cá nhân trong nước và các tổ chức quốc tế, các cá nhân, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam…, trong đó nòng cốt vẫn là các cơ quan của nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội. Đặc biệt, Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp đã có nhiều sáng tạo trong đổi mới nội dung, phương thức hoạt động[6], góp phần tham mưu và thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác phụ nữ.


Mặc dù các kết quả hoạt động phụ nữ do các cơ quan, tổ chức tiến hành trong những năm qua là khá lớn, đem lại lợi ích về nhiều mặt, là một trong những kênh quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, nhưng thực tế hoạt động phụ nữ còn nhiều bất cập:

Thứ nhất, các hoạt động phụ nữ còn dàn trải, chưa trọng tâm, còn chồng chéo, chỗ thừa, chỗ thiếu, còn nhiều khoảng trống chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến thực tế các nguồn lực đầu tư cho công tác phụ nữ chưa thực sự đem lại hiệu quả thiết thực.


Thứ hai
, đối tượng phụ nữ được thụ hưởng các hoạt động phụ nữ do các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện chưa đồng đều, chủ yếu tập trung mạnh trong khu vực có quan hệ lao động, khu vực phi chính quy và yếu tố vùng, miền chưa được quan tâm đầy đủ và đúng mức.

Thứ ba, hầu hết các hoạt động phụ nữ mới chỉ dừng lại ở mức độ chung cho tất cả mọi phụ nữ, chưa tính đến mục tiêu hỗ trợ, thúc đẩy phụ nữ phù hợp với từng nhóm đối tượng và khu vực sinh sống, làm việc của họ.


Thứ tư
, xu hướng phát triển đa dạng của xã hội, hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng sâu rộng, là cơ hội và điều kiện quan trọng để các hoạt động phụ nữ ngày càng đa dạng, phong phú và thiết thực hơn. Tuy nhiên, do phụ nữ là đối tượng dễ nhạy cảm, xuất phát điểm về mọi mặt thấp hơn nam giới, trình độ còn nhiều hạn chế… nên xu hướng trên cũng đặt ra vấn đề cần quan tâm đến tính hợp lý, hợp pháp của các hoạt động phụ nữ để phòng ngừa, ngăn chặn và giải quyết đối với các tổ chức, cá nhân có ý đồ xấu lợi dụng để lôi kéo phụ nữ tham gia vào các mục đích không chính đáng có thể làm phương hại đến lợi ích cá nhân, tập thể và nhà nước dưới hình thức vỏ bọc là hoạt động phụ nữ.


Thứ năm
, với vai trò là tổ chức đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được Nhà nước quan tâm tạo điều kiện về mọi mặt. Tuy nhiên, hoạt động của Hội chưa giải quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra đối với phụ nữ trong tình hình mới do thiếu cơ sở pháp lý và cơ chế thực tế đủ mạnh để Hội phát huy vai trò, trách nhiệm của mình.

Do vậy, cần có các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động phụ nữ bảo đảm đi đúng mục tiêu vì sự tiến bộ, phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới.


3. Góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới


Để bảo đảm hài hoà cả phương thức đối xử và kết quả thực tế thực hiện mục tiêu bình đẳng giới đã được xác định tại Điều 4 Luật Bình đẳng giới[7], ngoài việc nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về vai trò, vị trí và những khác biệt giữa nam giới và phụ nữ cả về sinh học và xã hội, đòi hỏi phụ nữ phải được tăng cường năng lực mọi mặt để khắc phục những rào cản, những hạn chế của cá nhân và khoảng cách giới hiện tại.


Để giúp phụ nữ vượt qua những khó khăn, cản trở và có được năng lực toàn diện về mọi mặt, không thể thiếu được các hoạt động do các cơ quan, tổ chức, cá nhân tiến hành phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội, thông qua đó hỗ trợ tích cực cho việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.


4. Tiếp tục thể hiện cam kết quốc tế của Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền con người


Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia Công ước Liên Hợp Quốc về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) ngày 29/7/1980 và được Hội đồng Nhà nước phê chuẩn ngày 27/11/1981. Thực hiện nghĩa vụ quốc gia thành viên CEDAW, thông qua các báo cáo, nước ta được Uỷ ban CEDAW đánh giá là tiến hành nội luật hoá CEDAW khá thành công vì mục tiêu nâng cao quyền của phụ nữ trên thực tế, tiến tới bảo đảm mục tiêu bình đẳng giới. Tuy nhiên, việc thực hiện CEDAW trên thực tế còn nhiều hạn chế. Một trong những nguyên nhân của hạn chế là các biện pháp áp dụng thực tế, trong đó có hoạt động phụ nữ chưa được coi trọng đúng mức, chưa có hệ thống và cơ sở pháp lý đủ mạnh…Thực tế này đòi hỏi Nhà nước ta cần tiếp tục có những giải pháp mạnh, trong đó có giải pháp tạo cơ chế và điều kiện để các hoạt động phụ nữ được phát triển và hiệu quả hơn.

Với 4 điểm nêu trên, việc ban hành Luật về hoạt động phụ nữ là cần thiết và cấp bách.

Sự ra đời của Luật này không chỉ tiếp tục khẳng định quyết tâm cao của Nhà nước ta trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân và sự phát triển bền vững, thịnh vượng của quốc gia, mà còn là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan, tổ chức, cá nhân phát huy tốt nhất quyền và trách nhiệm của mình trong việc động viên, hỗ trợ phụ nữ vươn lên về mọi mặt trong cuộc sống xã hội và gia đình vì mục tiêu phát triển và bình đẳng giới.


Thông qua việc tổ chức các hoạt động chăm lo đến lợi ích thiết thực và thúc đẩy quyền làm chủ, cũng như sự tham gia ngày càng nhiều và hiệu quả của phụ nữ vào quá trình phát triển, đổi mới và hội nhập của đất nước, phụ nữ sẽ góp phần tích cực hơn vào công cuộc xây dựng xã hội công dân, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.


II. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CHÍNH CỦA DỰ ÁN LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG PHỤ NỮ


Luật về hoạt động phụ nữ phải bảo đảm:

- Thể chế hoá các quan điểm của Đảng về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Xác định rõ các hoạt động phụ nữ.

- Phát huy tính tích cực về chính trị - xã hội của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động phụ nữ.

- Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là nòng cốt trong các chủ thể thực hiện các hoạt động phụ nữ.

- Xác định rõ mối quan hệ hợp tác, phối hợp giữa Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện các hoạt động phụ nữ.

- Xác định rõ vai trò quản lý nhà nước đối với các hoạt động phụ nữ

- Xác định rõ các quy định pháp luật hỗ trợ có hiệu quả cho việc thực thi Luật bình đẳng giới, các văn bản quy phạm pháp luật và các Điều ước quốc tế có liên quan đến bình đẳng giới và sự phát triển của phụ nữ.


III. PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA DỰ ÁN LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHỤ NỮ


Dự án Luật tập trung điều chỉnh:

1. Các hoạt động phụ nữ.

2. Trách nhiệm nòng cốt trong hoạt động phụ nữ của Hội LHPNVN

3. Quan hệ hợp tác, phối hợp: Giữa Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện các hoạt động phụ nữ; Giữa các các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện các hoạt động phụ nữ; Giữa Nhà nước, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện hoạt động phụ nữ với phụ nữ Việt Nam trong và ngoài nước.

4. Vai trò quản lý nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện các hoạt động phụ nữ.

5. Quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện các hoạt động phụ nữ.


IV. ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG CỦA DỰ ÁN LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHỤ NỮ

1. Các cơ quan quản lý nhà nước

2. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, chính trị - xã hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, các tổ chức khác và công dân Việt Nam thực hiện các hoạt động phụ nữ.

3. Các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ quốc tế, cá nhân nước ngoài có quan hệ với các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện các hoạt động phụ nữ.


V. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH CỦA DỰ ÁN LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG PHỤ NỮ

Chương I. Những quy định chung, gồm:
Phạm vi điều chỉnh;Đối tượng áp dụng; Hoạt động phụ nữ;Giải thích từ ngữ; Nguyên tắc tổ chức và hoạt động phụ nữ; Các chính sách của nhà nước đối với hoạt động phụ nữ; Trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động phụ nữ

Chương II. Hoạt động phụ nữ: quy định cụ thể về các hoạt động phụ nữ

Chương III. Các tổ chức, cá nhân hoạt động phụ nữ

Chương này sẽ quy định cụ thể các tổ chức, cá nhân hoạt động phụ nữ và chủ thể nòng cốt là Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam


Chương IV. Hợp tác và phối hợp trong hoạt động phụ nữ

Chương này sẽ điều chỉnh các vấn đề liên quan đến:

- Hợp tác và phối hợp trong hoạt động phụ nữ giữa Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện các hoạt động phụ nữ.

- Hợp tác và phối hợp trong hoạt động phụ nữ giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện các hoạt động phụ nữ.

- Hợp tác và phối hợp trong hoạt động phụ nữ giữa Nhà nước, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện hoạt động phụ nữ với phụ nữ Việt Nam trong và ngoài nước.

Chương V. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động phụ nữ

Chương này quy định về trách nhiệm cụ thể của các chủ thể thực hiện hoạt động phụ nữ trong việc: Tổ chức các hoạt động phụ nữ; Tham gia xây dựng và thực hiện pháp luật về hoạt động phụ nữ; Tham gia quản lý nhà nước về hoạt động phụ nữ ; Giám sát hoạt động và việc thực hiện các quy định pháp luật về hoạt động phụ nữ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng điều chỉnh của luật này; Phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật về hoạt động phụ nữ


Chương VI. Thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm

Chương này điều chỉnh các vấn đề liên quan đến thanh tra, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm quy định pháp luật về hoạt động phụ nữ

Chương VII. Điều khoản thi hành


VI. DỰ BÁO TÁC ĐỘNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA DỰ ÁN LUẬT

Luật về hoạt động của phụ nữ được soạn thảo và ban hành sẽ góp phần:

1. Củng cố và nâng cao hiệu quả các hoạt động phụ nữ đang thực hiện, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động phụ nữ đi đúng mục tiêu. Đồng thời, tạo cơ hội và điều kiện để phát triển sâu rộng hơn mạng lưới hoạt động phụ nữ.

2. Nâng cao năng lực về mọi mặt cho phụ nữ Việt Nam thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và nâng cao địa vị của phụ nữ Việt Nam

3. Xây dựng xã hội công dân và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

4. Giảm khiếu kiện và tranh chấp, ngăn ngừa vi phạm pháp luật


VII. DỰ KIẾN NGUỒN LỰC


1. Nguồn lực soạn thảo Luật

Nguồn ngân sách nhà nước cấp theo quy định về soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật và nguồn huy động khác


2. Nguồn lực thực thi Luật

Được sử dụng lồng ghép trong các hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động phụ nữ và các nguồn huy động khác.


VI. DỰ KIẾN TIẾN ĐỘ


Để bảo đảm việc soạn thảo luật có chất lượng, Ban Chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam kính đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho phép dự án Luật về hoạt động phụ nữ được đưa vào Chương trình xây dựng luật và pháp lệnh của Quốc hội khoá XII, nhiệm kỳ 2007 - 2011.

Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam dự kiến sẽ trình Quốc hội khoá XII cho ý kiến dự án Luật về hoạt động phụ nữ tại kỳ họp thứ 7 và trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 (năm 2010).


Trên đây là một số ý kiến sơ bộ về dự án Luật về hoạt động phụ nữ, Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trân trọng báo cáo với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến để Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam triển khai các bước tiếp theo.


Xin trân trọng cảm ơn.


                                                                                       TM. BAN CHẤP HÀNH

Nơi nhận:                

- Như trên;                                                                                           CHỦ TỊCH

- Uỷ ban về Các vấn đề xã hội của Quốc hội;

- Uỷ ban pháp luật của Quốc hội;

- Ban công tác lập pháp của Uỷ ban TVQH;

- Uỷ ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

- Văn phòng Quốc hội;                                                                        Hà Thị Khiết

- Bộ Tư pháp;                                                                                          (đã ký)

-Lưu VT, LPCS



[1] Chi tiết tham khảo phụ lục 1

[2] Theo Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị

[3] Theo Hiến pháp 1992, Luật Ban hành VBQPPL, Luật Bình đẳng giới, Nghị định 19/2003/NĐ-CP (xem phụ lục 1)

[4] Xem mục I Nghị quyết số 11-NQ/TƯ ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị

[5] Xem mục II Nghị quyết số 11-NQ/TƯ ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị

[6] Xem mục I Nghị quyết số 11-NQ/TƯ ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị

 

[7] “Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”

T.W Hội LHPNVN

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video